Table of Contents
Yên Bái, vùng đất giàu tài nguyên nước, được biết đến với hệ thống sông ngòi dày đặc và nguồn nước ngầm dồi dào. Bài viết này sẽ tập trung giới thiệu về hai con sông lớn chảy qua Yên Bái, đồng thời điểm qua các đặc điểm về nguồn nước mưa, nước mặt và nước ngầm của tỉnh.
Nước mưa:
Mùa mưa ở Yên Bái kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80-85% tổng lượng mưa cả năm. Đặc biệt, các tháng 6, 7, 8 là thời điểm mưa lớn nhất, chiếm 45-55% lượng mưa cả năm. Ngược lại, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau chỉ chiếm 15-20% lượng mưa cả năm, gây ra tình trạng thiếu nước, đặc biệt vào các tháng 12, 1 và 2. Mưa lớn kéo dài kèm theo gió xoáy, thậm chí mưa đá, có thể gây ra lũ lụt, úng ngập, lũ cuốn, lũ ống, gây thiệt hại cho mùa màng và tài sản của người dân vùng ven sông suối.
Nước mặt: Hai hệ thống sông chính
Yên Bái có hai hệ thống sông chính là sông Thao và sông Chảy, đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của tỉnh.
Sông Thao:
Là dòng chính của sông Hồng, bắt nguồn từ dãy núi Nguy Sơn (Vân Nam, Trung Quốc), chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Đoạn sông Thao chảy qua Yên Bái dài 100km, từ Lang Thíp (Văn Yên) đến Văn Tiến (Trấn Yên), với diện tích lưu vực 2.700 km2. Sông Thao có 48 ngòi phụ lưu, trong đó lớn nhất là Ngòi Thia, Ngòi Hút, Ngòi Lâu và Ngòi Lao. Lưu lượng nước sông Thao thay đổi thất thường, mùa khô xuống thấp, gây thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.
Ngòi Thia: Là phụ lưu lớn nhất của sông Thao, bắt nguồn từ dãy núi Phun Sa Phìn và Phu Chiêm Ban. Dòng chảy của ngòi Thia tạo nên đồng bằng phù sa màu mỡ ở Văn Chấn, thích hợp cho sản xuất nông nghiệp. Đất phù sa do ngòi Thia bồi đắp giàu dinh dưỡng, thích hợp cho nhiều loại cây lương thực và cây công nghiệp. Lưu vực sông Thao còn có các ngòi khác như Ngòi Hút (75km, 622km2), Ngòi Kim (178km2), Ngòi Lao (445km2), Ngòi Lâu (242km2), Ngòi Gùa (65km2).
Sông Chảy:
Bắt nguồn từ dãy núi Tây Côn Lĩnh (Hà Giang), chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, dài 95km, từ Minh Chuẩn (Lục Yên) đến Hán Đà (Yên Bình), rồi nhập vào sông Lô. Các chi lưu chính nằm ở tả ngạn, như ngòi Biệc, ngòi Đại Cại ở hạ lưu sông Chảy (Lục Yên). Diện tích lưu vực là 2.200km2.
Hồ Thác Bà: Hạ lưu sông Chảy là hồ Thủy điện Thác Bà, một hồ nhân tạo lớn với diện tích mặt hồ 23.400 ha, chiều dài 80km, nơi rộng nhất 15km, độ sâu lòng hồ 15-34m, tổng lượng nước 2,9 tỷ m3. Hồ Thác Bà không chỉ cung cấp điện năng (120.000 KW/năm) mà còn là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Hồ còn điều tiết lưu lượng dòng chảy, giúp cân bằng giữa mùa lũ và mùa cạn, giảm nhiệt độ mùa hè, tăng độ ẩm mùa khô, tạo điều kiện thuận lợi cho thảm thực vật và sản xuất nông nghiệp.
Hệ thống ao hồ: Yên Bái có nhiều ao hồ lớn, tập trung ở Yên Bình, Lục Yên, Trấn Yên. Các đầm lớn ở Giới Phiên, Hợp Minh (TP. Yên Bái), Minh Quân (Trấn Yên) có nguồn gốc từ dòng sông Thao cổ, hình thành do quá trình trầm tích và đổi dòng trong thời kỳ Neogen.
Nước ngầm:
Theo các tài liệu địa chất – thuỷ văn, nguồn nước ngầm và nước khoáng phân bố ở độ sâu 20 – 200 mét dưới lòng đất. Nước khoáng nóng phân bố chủ yếu ở vùng phía Tây thuộc các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu và thị xã Nghĩa Lộ, nhiệt độ trên 400C, hàm lượng khoáng hoá 1- 5 gam/lít, có khả năng chữa bệnh khi được xử lý độc tố.
Kết luận:
Với hệ thống sông ngòi phong phú và nguồn nước dồi dào, Yên Bái có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế nông nghiệp, thủy điện và du lịch sinh thái. Việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên nước là yếu tố then chốt để đảm bảo sự phát triển bền vững của tỉnh.

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.