Trong giáo lý nhà Phật, khổ đau là một thực tế hiển nhiên. Bài pháp đầu tiên của Đức Phật đã đề cập đến khổ đế, nhấn mạnh rằng mọi sự tồn tại đều gắn liền với khổ đau. Ngay từ khi chào đời, con người đã phải đối mặt với những khổ sở như bệnh tật, đói khát, sợ hãi. Những nỗi khổ này bủa vây thân tâm, không ai có thể tránh khỏi. Tóm lại, Đức Phật đã chỉ rõ bốn tướng khổ của đời người: sinh, già, bệnh, chết. Vậy khổ từ đâu mà đến? Nguồn gốc của khổ đau chính là nhập sinh, bắt nguồn từ tham, sân, si, mạn, nghi. Bài viết này sẽ đi sâu vào tìm hiểu cội nguồn của những phiền não này, từ đó tìm ra cách để giảm bớt khổ hạnh cho nhân sinh.
Đức Phật dạy rằng đau khổ không tự nhiên sinh ra. Sự đau khổ của nhân sinh bắt nguồn từ chính những phiền não trong mỗi cá nhân, đó là tham, sân, si, mạn, nghi. Những phiền não này là nỗi buồn tâm lý, nỗi đau thể xác và sự khổ sở. Tham, sân, si, mạn, nghi được coi là gốc rễ của mọi phiền não. Trong đó, tham, sân, si được gọi là “Tam Độc” mà không ai có thể tránh khỏi.
Trong Phật giáo, tham, sân, si được gọi là “tam độc” (Triviṣa trong tiếng Phạn). Tam độc thể hiện ba trạng thái tinh thần có hại của con người: tham lam (Lobha), thù hận (Dosa) và vô minh (Moha). Hình ảnh công, rắn, lợn cắn đuôi nhau trong bức tranh “Bánh xe luân hồi” (Bhavacakra) ở nhiều tu viện Phật giáo Tây Tạng chính là biểu tượng cho Tam độc.
Do bị kiềm hãm bởi Tam Độc, con người tạo ra nghiệp xấu, phát sinh nghiệp lực trói buộc tâm can, ý thức. Khi qua đời, họ sẽ bị nghiệp lực điều khiển và tái sinh vào sáu cõi luân hồi, mang theo tâm thức và hình hài mới tương ứng với nghiệp chướng đã tạo trong quá khứ.
Tham, sân, si, mạn, nghi chính là Ngũ Độc trong mỗi người. Tam Độc là tham, sân, si dẫn dắt con người sa đọa vào tam ác đạo: ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh. Vậy mạn, nghi là gì? Hai loại độc còn lại trong Ngũ độc gồm mạn và nghi là độc chướng đạo, cản trở con người giải thoát và thành đạo quả vô thượng bồ đề.
Tham Sân Si Mạn Nghi Ác Kiến hay còn gọi là Tham Sân Si Mạn Nghi Tà kiến là Lục Độc với độc thứ 6 là tà kiến. Theo giảng giải Phật giáo, Tà kiến là sự bác bỏ nhân quả, bất tuân Phật Pháp, là một trong ngũ kiến và thập ác. Sự sai lệch về quan niệm và bản chất của sự hiện hữu là nguyên nhân khởi sinh Tà kiến. Có ít nhất là 62 tà kiến ngoại đạo trong thời Đức Phật còn tạ thế. Nhân quả là thuyết được Phật Giáo nhấn mạnh mẽ, chỉ khi hiểu được thuyết nhân quả thì mới phần nào tìm được lời giải cho nguồn gốc của bất hạnh và khổ đau. Không hiểu hoặc khước từ không hiểu thuyết nhân quả chính là một loại tà kiến trong Phật giáo.
Đức Phật dặn rằng: “Chúng sanh phải chịu đựng khổ đau phiền não vì tham lam, sân hận, si mê, và nguyên nhân của những điều độc hại này chẳng những là vô minh mà còn do tà kiến nữa”.
Tà kiến cũng được hiểu là niềm tin tuyệt đối được đặt vào chủ nghĩa hoàn toàn hủy diệt và phủ nhận sự hiện hữu của hiện tượng, nghĩa là khi chết là chấm dứt tất cả, trái lại với lý tưởng cho rằng thân tâm là thường trụ bất diệt; cả hai đều chính là tà kiến.
“Tham, sân, si, mạn, nghi” nằm trong tâm và không ai tránh khỏi. Chúng đeo bám và kìm kẹp con người, khiến con người sa vào nghiệp tà dẫn đến quả báo. Vì vậy, để xóa bỏ, giảm bớt và đánh đuổi sự chi phối của những độc này, cần bắt đầu từ tâm, nghiền ngẫm từ từ trong thời gian dài, thật tâm buông bỏ.
“Nhân chi sơ, tính bản thiện” nhắc nhở về bản chất thiện lương, thuần khiết của con người. “Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến” không phải là thứ không thể thay đổi. Đây là những phiền não tích tụ, lớn dần theo thời gian. Do đó, mỗi cá nhân có thể tác động, kìm hãm, đánh bại và tiêu diệt chúng.
Dù biết rằng không thể tránh khỏi sai lầm và luân hồi, nghiệp báo, nhưng những nhân duyên tốt đẹp và giá trị thiện lành là điều mà mỗi người có thể tạo ra. Hãy rũ bỏ những ham muốn tầm thường để nuôi dưỡng thiện lương, biết đủ, biết bằng lòng với những giá trị hiện có để tạo nên hạnh phúc.
Đời người hữu hạn, hãy khiến cho sự hữu hạn ấy trở nên giá trị và tốt đẹp hơn thay vì dấn thân vào tham, sân, si, mạn, nghi để rồi tự chuốc lấy khổ đau, làm hại bản thân. Lời Đức Phật truyền dạy dẫn dắt chúng ta tránh rơi vào nghiệp quả, lấy thiện lương và tâm trong sáng làm kim chỉ nam của cuộc đời.
Nguồn: https://mncatlinhdd.edu.vn/ Tác giả: Nguyễn Lân dũng
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.
Chiến tranh luôn mang đến những hậu quả đau thương, mất mát không chỉ về…
Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, đã cống hiến…
Hiện nay, nhiều người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) vẫn chưa nắm rõ…
Cha mẹ đang tìm cách dạy gấu con nhưng không biết làm thế nào? Một…
Trong thế giới thiết kế và nghệ thuật ngày nay, việc lựa chọn và phối…
Trong máy thu thanh, khối chọn sóng đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp…
This website uses cookies.