Table of Contents
Quy hoạch cán bộ đóng vai trò then chốt trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Để đảm bảo quy hoạch hiệu quả, cần tuân thủ các nguyên tắc được quy định rõ ràng, vừa mang tính “động,” vừa đảm bảo tính “mở” để lựa chọn được những nhân tố mới, phù hợp với tình hình thực tiễn. Bài viết này sẽ đi sâu vào các nguyên tắc, tiêu chuẩn và quy định quan trọng trong công tác quy hoạch cán bộ, dựa trên những thông tin được quy định.
Công tác quy hoạch cán bộ phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tuân thủ quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Quy trình quy hoạch cần chặt chẽ, đồng bộ, liên thông, công khai và minh bạch.
Quy hoạch phải coi trọng chất lượng, bảo đảm cân đối, hài hoà và hợp lý giữa các khâu trong công tác cán bộ. Sự liên thông giữa quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ là yếu tố then chốt. Cần chú trọng sự cân đối giữa cán bộ quy hoạch và cán bộ đương nhiệm; giữa nguồn cán bộ ở Trung ương và địa phương; giữa nguồn cán bộ tại chỗ và nguồn cán bộ từ nơi khác.
Điểm nổi bật trong quy định hiện hành là phương châm quy hoạch “động” và “mở.” Hàng năm, cần đánh giá, rà soát để loại bỏ những cán bộ không đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện, không hoàn thành nhiệm vụ hoặc vi phạm quy định. Đồng thời, bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới, có đủ tiêu chuẩn, điều kiện và triển vọng phát triển từ nguồn nhân sự tại chỗ hoặc từ nơi khác.
Tiêu Chuẩn và Độ Tuổi Trong Quy Hoạch Cán Bộ
Tiêu chuẩn đối với cán bộ quy hoạch cơ bản thực hiện như tiêu chuẩn bổ nhiệm đối với chức danh theo quy định hiện hành. Tại thời điểm quy hoạch, cấp có thẩm quyền có thể xem xét, phê duyệt quy hoạch đối với những cán bộ cơ bản đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện của chức danh bổ nhiệm theo quy định.
Về độ tuổi, cán bộ được quy hoạch nhiệm kỳ kế tiếp phải đủ tuổi công tác hai nhiệm kỳ trở lên, ít nhất phải trọn một nhiệm kỳ kế tiếp đó (60 tháng). Khi rà soát, bổ sung quy hoạch hằng năm cho nhiệm kỳ hiện tại, cán bộ đưa vào quy hoạch phải còn đủ tuổi công tác ít nhất từ 72 tháng trở lên.
Thời điểm tính tuổi quy hoạch đối với quy hoạch nhiệm kỳ kế tiếp đối với chức danh cấp ủy, lãnh đạo cấp ủy, các ban, cơ quan của Đảng, ủy ban kiểm tra là thời điểm tiến hành đại hội đảng bộ các cấp. Đối với chức danh lãnh đạo, quản lý các cơ quan Nhà nước, thời điểm này là thời điểm bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp. Còn với chức danh lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, đó là thời điểm đại hội các cấp của mỗi tổ chức.
Số Lượng và Cơ Cấu Quy Hoạch
Mỗi chức danh quy hoạch không quá ba cán bộ, và một cán bộ không quy hoạch quá ba chức danh. Hệ số quy hoạch cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp từ 1 đến 1,5 lần so với số lượng theo quy định.
Quy định cũng nêu rõ, phấn đấu quy hoạch theo cơ cấu ba độ tuổi, tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn, lĩnh vực công tác. Cụ thể, phấn đấu cơ cấu, tỉ lệ quy hoạch cấp ủy và các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp theo hướng:
- Cán bộ trẻ dưới 45 tuổi (đối với Trung ương) hoặc dưới 40 tuổi (đối với cấp tỉnh, cấp huyện) từ 15% trở lên.
- Cán bộ nữ từ 25% trở lên.
- Tỉ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số phù hợp với từng địa bàn, lĩnh vực.
- Cấp huyện và tương đương trở lên phải có cán bộ nữ trong quy hoạch các chức danh cấp ủy, lãnh đạo, quản lý.
Danh sách cán bộ được cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch hoặc đưa ra khỏi quy hoạch được thông báo công khai trong cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo và người đứng đầu, cá nhân có liên quan biết, quản lý, sử dụng quy hoạch.
Các Trường Hợp Ra Khỏi Quy Hoạch
Quy định của Bộ Chính trị cũng quy định rõ các trường hợp đương nhiên ra khỏi quy hoạch. Cụ thể, cán bộ quá tuổi quy hoạch hoặc bị cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật từ hình thức khiển trách trở lên (đối với cá nhân) hoặc kết luận không bảo đảm tiêu chuẩn chính trị của chức danh quy hoạch sẽ bị đưa ra khỏi quy hoạch.
Các chức danh quy hoạch bao gồm:
- Ủy viên Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
- Các chức danh thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và chức danh phải lấy ý kiến thẩm định của các ban, cơ quan Đảng ở trung ương.
- Các chức danh thuộc diện các cấp ủy, tổ chức Đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý.
Bộ Chính trị phê duyệt quy hoạch các chức danh cấp ủy, lãnh đạo, quản lý đối với nhân sự là Ủy viên Trung ương Đảng (cả chính thức và dự khuyết). Ban Tổ chức Trung ương phê duyệt quy hoạch các chức danh cấp ủy, lãnh đạo, quản lý thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (không bao gồm nhân sự do Bộ Chính trị quy hoạch) và các chức danh phải lấy ý kiến thẩm định của các ban, cơ quan đảng ở Trung ương theo quy định của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ. Các cấp ủy tổ chức Đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị phê duyệt quy hoạch đối với các chức danh cấp ủy, lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm quyền quản lý theo quy định.
Kết Luận
Việc tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc, tiêu chuẩn và quy định trong công tác quy hoạch cán bộ là yếu tố then chốt để xây dựng đội ngũ cán bộ chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Quy hoạch “động” và “mở” giúp đảm bảo tính linh hoạt, kịp thời và lựa chọn được những nhân tố mới, phù hợp với tình hình thực tiễn. Việc công khai, minh bạch thông tin quy hoạch cũng góp phần tạo sự đồng thuận, tin tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.