Table of Contents
1. Âm mưu phá hủy sự cân bằng của chiến lược quân sự của Ronan Rigan
Sau khi Nichx bị sụp đổ, phó chủ tịch Hoa Kỳ – Jerorn (Gerald Ford) trở thành tổng thống. Vào tháng 11 năm 1976, trong cuộc bầu cử tổng thống, Gimmi Catd (Jimmy Cater) của Đảng Dân chủ đã được bầu. Nhưng chính sách đối ngoại của G.Pho và G. Cơ bản vẫn chỉ là sự chuyển đổi sang chính sách đối ngoại của Nichxon.
Trong cuộc bầu cử vào tháng 11 năm 1980, Ronan Rigan (Ronald Reagan), Đảng Cộng hòa được bầu làm tổng thống. Rigan phán quyết trong bối cảnh nước Mỹ liên tục gặp phải những thất bại nặng nề ở Việt Nam, Iran … và tình trạng của Hoa Kỳ đã giảm mạnh ở nhiều khu vực trên thế giới. Trước khi Liên Xô đưa quân đội vào Apganixan, Liên Xô đã hỗ trợ Ba Lan tuyên bố “tình hình chiến tranh” để đàn áp các lực lượng đối lập ở Ba Lan (từ ngày 13 tháng 12 năm 1981, Ba Lan nằm dưới sự kiểm soát của quân đội, cảnh sát và các lực lượng chống áp lực, bị bắt bớ, bị giam cầm)
Trước hết, Rigin đã thực hiện một cuộc chạy đua vũ trang mạnh mẽ để phá vỡ sự cân bằng của chiến lược quân sự với Liên Xô, khôi phục vị trí hàng đầu trong quân đội. Từ năm 1980 đến 1986, ngân sách quân sự tăng 50%, sau đó giảm một chút. Năm 1982, ngân sách quân sự chiếm 7,4% tổng sản phẩm quốc gia (GNP). Vào tháng 11 năm 1983, Rigan đã ra lệnh mang tên lửa tầm trung “Pers Breath” và “Cruise” nằm ở Tây Đức, Bỉ, Hà Lan và các nước châu Âu khác. Vào ngày 23 tháng 3 năm 1983, Rigān đã ban hành một kế hoạch gọi là “Chiến tranh giữa San” (SDI với chi phí 26 tỷ đô la trong 5 năm đối phó với môn crickets, Liên Xô cũng tăng đua vũ trang nhưng không tồn tại tới 25% các sản phẩm quốc gia Liên Xô và Liên Xô và các quốc gia XEM XEM.
Ngoài ra, Rigan cũng giải phóng các luật của Quốc hội về việc hạn chế sáng kiến của Tổng thống. Do đó, ông có thể tiến hành các chiến dịch như ở Grenada vào năm 1983, Lili năm 1986 và cung cấp vũ khí cho quân đội nổi loạn ở Apganixtan.
Với Trung Đông, Rigin đã thực hiện nhiều biện pháp để duy trì vị thế của mình trong lĩnh vực chiến lược quan trọng này.
“Lý thuyết Rigan”, thường được gọi là “Học thuyết đua tay, từ vị trí hàng đầu của quân đội trên khắp thế giới”, đã thực hiện cuộc đối đầu của Liên Xô – Mỹ căng thẳng hơn và tình hình thế giới phức tạp hơn trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Rigan (1980 – 1984).
2. Xô Viết – Kết thúc “Chiến tranh lạnh”
Kể từ nửa sau của thập niên 80, đặc biệt là kể từ khi Goochach cai trị ở Liên Xô, các mối quan hệ của Mỹ -Aman đã thực sự thay đổi từ “thay đổi đầu” thành “thay đổi giọng nói”. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Liên Xô và Hoa Kỳ đã tiến hành nhiều cuộc họp cao cấp giữa Rigan và Goocbachop, giữa BUSD và GOOCBachop thông qua đó nhiều tài liệu về hợp tác trong kinh tế, giao dịch, văn hóa – quan trọng nhất là việc ký kết với các chiến thuật của Mid. 1987, Hoa Kỳ và Liên Xô đã đồng ý giảm một bước quan trọng của cuộc đua vũ trang, dần dần ngăn chặn tình huống “Chiến tranh Lạnh”, làm việc cùng nhau để giải quyết các tranh chấp và xung đột quốc tế.
Vào cuối năm 1989, tại cuộc họp không chính thức giữa Busd và Goocbachop trên đảo Manta, MI và Liên Xô đã chính thức tuyên bố kết thúc “Chiến tranh Lạnh” kéo dài hơn 40 năm giữa hai nước.
Lý do Hoa Kỳ và Liên Xô đã kết thúc “Chiến tranh Lạnh”, bởi vì:
Thứ nhất, hơn 10 năm, với gánh nặng của “cuộc chạy đua vũ trang” và “làm thế nào” chi tiêu quân sự gần như trên toàn thế giới (tại thời điểm này, hai nước Hoa Kỳ Liên Xô phải chịu từ 50 đến 65% chi tiêu quân sự của cả thế giới), hai nước bị suy giảm “sức mạnh” theo nhiều cách so với các quyền hạn khác.
Thứ hai, Hoa Kỳ và Liên Xô đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức lớn: Đức và Nhật Bản – hai kẻ phát xít bị đánh bại giờ đã tăng mạnh, trở thành một đối thủ nguy hiểm cho Hoa Kỳ và xa; Các quốc gia trong “Khối thị trường chung châu Âu (EEC)” trở nên rất mạnh; “Cuộc chiến kinh tế toàn cầu mà cả thế giới đang cố gắng đua nhau, cuộc cách mạng công nghệ và kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, v.v. … để tăng thời gian cho các quốc gia khác, cả hai nước cần thoát khỏi” đối đầu “với nhau và có tình trạng ổn định.
Thứ ba, nền kinh tế của Hoa Kỳ và Liên Xô đã giảm so với Nhật Bản và Tây Âu (đặc biệt, Liên Xô hiện đang trong một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng). Do đó, “thời kỳ chiến tranh lạnh” đã kết thúc và quan hệ quốc tế đã bước vào một giai đoạn mới, “giai đoạn sau Chiến tranh Lạnh”.
Trước hết, điều quan trọng là mối quan hệ giữa 5 quốc gia lớn: Liên Xô, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp, Trung Quốc (5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an, có một nhiệm vụ quan trọng trong việc duy trì hòa bình, an ninh và trật tự thế giới đã được thành lập) cũng có nhiều đổi mới trong thay đổi nước ngoài. Trong Chiến tranh Lạnh, mặc dù đó là 5 quốc gia lớn, nhưng nó vẫn chỉ là một “hai cơ sở” -thay đổi đầu của Mỹ: Anh, Pháp phụ thuộc vào Hoa Kỳ và Trung Quốc đôi khi liên minh với Liên Xô chống lại Mỹ (ở những năm 50 đã chống lại “Hai người Ba Lan” đối đầu với nhau với “đối thoại”, hợp tác với nhau trong hòa bình, giải quyết các tranh chấp và xung đột quốc tế (như Chiến tranh Pécxich – 1991 và giải quyết xung đột vũ trang ở nhiều khu vực trên thế giới).
3. Quan hệ giữa hai nước Liên Xô – người Mỹ từ “Chiến tranh lạnh” (1989 – 1991)
Từ năm 1989, Liên Xô và Hoa Kỳ đã thực sự từ “đối đầu” đến “đối thoại”, hợp tác với nhau để giải quyết các tranh chấp quốc tế và xung đột quân sự của kẻ thù giữa các “hai cực” trước đó ở các khu vực trên thế giới.
Liên Xô và MI đã đi đến thỏa thuận giải quyết cuộc xung đột quân sự ở Apganixan bằng quân đội Liên Xô rút khỏi Apganixtan, giải quyết vấn đề Campuchia (đàm phán và ký thỏa thuận Paris cho Campuchia vào năm 1991) Hội đồng tuyên bố rằng Quốc hội tuyên bố rằng Quốc hội tuyên bố rằng Quốc hội tuyên bố rằng Quốc hội tuyên bố rằng Quốc hội tuyên bố rằng Quốc hội đã được công bố cho Quốc hội và sau đó tiếp cận với chính quyền của Quốc hội ” Đối với các nước Đức và Đông Âu, chính sách này không thực hiện các cam kết với các đồng minh của Liên Xô cũ (dừng viện trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ, v.v.).
Ngày 31 tháng 7 năm 1991. Liên Xô đã ký hợp đồng với Hoa Kỳ một hiệp ước nhằm hạn chế và giảm bớt điệu nhảy khi tấn công các chiến lược chiến lược (được gọi là hiệp ước bắt đầu), theo đó, một phần ba kho vũ khí hạt nhân của hai nước sẽ bị giết trong 7 năm tới. Hợp đồng Thỏa thuận này, Liên Xô đã bị thiệt thòi trong việc duy trì sự cân bằng sức mạnh của vũ khí hạt nhân với Hoa Kỳ.
Nhìn chung, các thỏa hiệp và nhượng bộ của Liên Xô đối với Hoa Kỳ từ năm 1989 đến năm 1991 đã làm suy yếu quyền lực và vị trí của Liên Xô ở tất cả các khu vực trên thế giới.
4. Sự sụp đổ của “thứ tự ianta”
Trong những năm 1989 – 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Đông Âu, mất khu vực “ảnh hưởng” của Liên Xô ở châu Âu.
Tiếp theo, vào ngày 19 tháng 8 năm 1991, tại Liên Xô đã diễn ra một cuộc đảo chính để lật đổ Tổng thống Goocba. Cuộc đảo chính đã thất bại vào ngày 21 tháng 8, gây ra hậu quả cực kỳ nghiêm trọng đối với đất nước Liên Xô: Goocbachop đã giải tán chính phủ Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị đình chỉ hoạt động trên khắp Liên bang, Cộng hòa Cộng hòa tuyên bố độc lập tách khỏi Liên Xô. Vào ngày 21 tháng 12 năm 1991, 11 Cộng hòa Liên Xô cũ đã ký một thỏa thuận thành lập một cộng đồng độc lập của các quốc gia độc lập (viết tắt của Nga là SNG). Sự ra đời của SNG đã buộc Tổng thống Liên Xô Goocbch phải từ chức vào ngày 25 tháng 12 năm 1991. Do đó, chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và Liên Xô đã phá vỡ. Sự kiện này đã dẫn đến một “cực đoan” – “Liên Xô cực đoan” – sụp đổ.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, Liên Xô đã dẫn đến khối quân sự Vacxava tuyên bố giải thể từ ngày 1 tháng 7 năm 1991 và Hội đồng hỗ trợ kinh tế (từ SEV) đã ngừng hoạt động vào ngày 28 tháng 6 năm 1991.
Hơn 40 năm, “trật tự hai cực của Ianta” đã dần bị xói mòn: chiến thắng của Cách mạng Trung Quốc năm 1949 đã tạo ra một “bước đột phá” cho mệnh lệnh này để phá vỡ âm mưu của Hoa Kỳ để kiểm soát Trung Quốc và Liên Xô buộc phải từ bỏ các đặc quyền của mình ở phía đông bắc Trung Quốc; Sự tăng trưởng kinh tế của các nước tư bản Tây Âu, đặc biệt là sự ra đời của thị trường nói chung châu Âu (EEC) từ giai đoạn trước, đã giảm nghiêm trọng phạm vi ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở Tây Âu; Lợi nhuận của Phong trào Giải phóng Quốc gia đã thay đổi cơ bản bộ mặt của mì Latin châu Á – châu Phi, theo “khuôn khổ Anta” về ảnh hưởng truyền thống của các nước Mỹ và Tây Âu; Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Nhật Bản và Tây Âu đã dẫn đến thực tế là hai trung tâm kinh tế và tài chính là Tây Âu và Nhật Bản cạnh tranh với Hoa Kỳ (trước đây là Hoa Kỳ là tần suất kinh tế của kinh tế, tài chính duy nhất của toàn thế giới), v.v.
Tuy nhiên, “thứ tự hai cực của Ianta” vẫn được duy trì. Nhưng. Sau Nh NH Liên xô, trong trật tự thế Giới Cũ Sức MạNH quân Sự nếu tính riênng từng nước một, NHưng gặp lại c + Phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Âu và châu Á đã bị mất, và Hoa Kỳ đã bị thu hẹp rất nhiều ở khắp mọi nơi; + Sau Thế chiến II, Liên Xô và Hoa Kỳ là những chiến thắng chính và đạt được những lợi ích lớn nhất trong “Lệnh Lanta -polar”, và Đức và Nhật Bản là những quốc gia phát xít chính bị đánh bại và sụp đổ về kinh tế, nhưng sự lo lắng của Vương quốc Anh Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh, Vương quốc Anh. Pháp…).

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.