Table of Contents
1. Pháp trong những năm khủng hoảng kinh tế. Cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng khốc liệt
Ở Pháp, cuộc khủng hoảng kinh tế đã nổ ra mới nhất so với các nước tư bản lớn khác. Mãi đến giữa -1930, cuộc khủng hoảng mới bắt đầu với sự phá sản của các ngân hàng. Sau đó, cuộc khủng hoảng lan truyền đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Trong cuộc khủng hoảng, sản xuất công nghiệp ở Pháp giảm 1/3, nông nghiệp giảm 2/5, thương mại nước ngoài giảm 3/5, thu nhập quốc gia giảm 1/3. Cuộc khủng hoảng ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến ngành công nghiệp ánh sáng: 130 doanh nghiệp dệt vải đã phá sản trong giai đoạn 1929 – 1935. Sản xuất lụa và len năm 1934 giảm một nửa so với năm 1929.
Cuộc khủng hoảng ở Pháp được đặc trưng bởi một thời gian dài. Mãi đến năm 1936, có một sự thịnh vượng của địa phương, nhưng vào năm 1937 đã bị khủng hoảng và không đạt được sự phát triển năm 1929. Việc sản xuất đã bị thu hẹp, gây ra thất nghiệp hàng loạt: năm 1935, hơn nửa triệu người thất nghiệp. Trong cuộc khủng hoảng, mức lương thực tế giảm 30% xuống 40%, mười nghìn chủ sở hữu của các nhà máy nhỏ, 10 nghìn doanh nghiệp nhỏ đã bị phá sản; Thu nhập của nông dân giảm 2,7 lần. Các cuộc đình công của các công nhân chống chính phủ liên tục nổ ra và khối lượng ngày càng rộng rãi.
Trong khi đó, nhiều tổ chức phát xít ở Pháp cũng xuất hiện và tăng cường hoạt động. Đáng chú ý là việc tổ chức “Fire Cross”, “Sự đoàn kết của Pháp”, Liên minh “Các nhà tài chính”, “Đảng hành động” và “Đội chiến đấu chéo”.
Trong thời gian 1929 – 1932, các bên quyền lực đã âm mưu giải quyết cuộc khủng hoảng của việc thu thập chính phủ và do đó, nó chịu đựng chủ nghĩa phát xít hoành hành. Đối mặt với nguy cơ phát xít, Đảng Cộng sản Pháp kêu gọi người dân đứng lên để chiến đấu và được phản ứng rộng rãi. Trong cuộc bầu cử năm 1932, các đảng chính nghĩa đã thất bại, các đảng “trái” đã giành được phần lớn phiếu bầu, đưa Eri (Herriot) đến chính phủ mới. Tuy nhiên, chính phủ chỉ tồn tại trong 3 tháng và Pháp bước vào thời kỳ bất ổn vào năm 1933 – 1934.
Vào ngày 6 tháng 2 năm 1934, hơn 2.000 tên côn đồ phát xít đã được trang bị cho nhu cầu của tỉnh để giải tán Quốc hội. Nhưng ngay sau đó, 25.000 công nhân Paris đã xuống đường chống lại phiến quân. Những người lính cũng thú nhận đoàn kết với các công nhân để bảo vệ Cộng hòa. Bạo lực phát xít đã bị xua tan. Kể từ đó, các cuộc đấu tranh chống phát xít đã nổ ra trên khắp đất nước.
Ở Paris và các thành phố khác, đã có những cuộc biểu tình chống phát xít mạnh mẽ và vào ngày 12-1934, có một công việc chung chưa từng có về sức mạnh và tổ chức, với hơn 4,5 triệu công nhân và công nhân. Các cuộc biểu tình và các cuộc đình công tổng thể đã chứng minh sự đồng ý về hành động của người lao động thực tế.
Vào tháng 7 năm 1934, các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội Pháp đã ký thỏa thuận thống nhất hành động chống lại rủi ro của chủ nghĩa phát xít. Việc thành lập mặt trận thống nhất của phong trào công nhân có tổ chức là quyết định cho việc thành lập một mặt trận của một người dân rộng lớn để chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít ở Pháp.
2. Chính phủ của Mặt trận Nhân dân Pháp
Vào tháng 5 năm 1935, Đảng Cộng sản. Dễ dàng xã hội cấp tiến và các đảng cấp tiến và các tổ chức xã hội ở Pháp đã gặp hội nghị ở Paris, thông qua việc giải quyết việc thành lập Mặt trận Nhân dân chống lại chủ nghĩa phát xít và chiến tranh. Vào ngày 14 tháng 7 năm 1935, Ngày Quốc khánh của Pháp, ở Paris và các thành phố khác đã tổ chức các cuộc biểu tình với hơn 2 triệu người tham gia để hỗ trợ mặt trận nhân dân.
Vào tháng 1 năm 1936, Mặt trận Nhân dân đã công bố nền tảng này bao gồm các yêu cầu chính trị quan trọng, cụ thể là: phân tán và giải giáp tất cả các tổ chức phát xít, hạn chế sức mạnh của vốn tài chính, đảm bảo tự do dân chủ, thực hiện các chính sách an ninh tập thể, bảo vệ Pháp chống lại mối đe dọa của Đức Đức Quốc xã …
Từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 3 tháng 5 năm 1936, đã có một cuộc bầu cử Quốc hội tại Pháp. Các bên phù hợp của mặt trận nhân dân đã thu được 5,6 triệu phiếu bầu (hơn 1 triệu phiếu bầu so với số phiếu bầu của khối phản động). Chính phủ của Mặt trận Nhân dân được thành lập bởi Leong Bolum (Leon Blum), người của Đảng Xã hội. Chính phủ đã thực hiện một số điều khoản của nền tảng mặt trận: cải cách ngân hàng, quỹ xuất khẩu để giải quyết các vấn đề xã hội, ổn định giá cho nông dân, tăng mức lương trung bình của người lao động lên 15% và đảm bảo chế độ làm việc 40 giờ mỗi tuần, quốc hữu hóa một phần của ngành công nghiệp chiến tranh, chuẩn bị cho nghị định
Lớp thao túng đã cố gắng phản đối chính sách của chính phủ. Họ thực hiện pháp và tài chính, đưa vốn ra nước ngoài, gây ra rối loạn tài chính trong nước. Họ kích động những người năng động gây ra sự khiêu khích để phá hủy luật pháp và trật tự xã hội … họ đã cố gắng nói xấu với mặt trận của mọi người, tập trung vào đầu giáo để dễ dàng tấn công người cộng sản để giảm uy tín và tiến hành tiêu diệt mặt trận mọi người
Trong khi đó, chính phủ bao gồm xã hội quyền lực “và” triệt để “để nắm giữ các chính sách tương tự đã sinh ra và ngày càng xa các nguyên tắc cơ bản của nền tảng. Vào tháng 6 năm 1937, Bulum đã từ chức; vào tháng 4 năm 1938, Daladie (Daladier) của đảng chính quyền.
Vào tháng 11 năm 1938, đã thực thi một lệnh thuế phi thường, bãi bỏ chế độ làm việc 40 giờ một tuần. Chính phủ thậm chí đã đưa quân đội và cảnh sát đàn áp công việc của công nhân và tuyên bố “tình trạng đặc biệt” trong nước. Chính phủ Dala đã bất chấp sự phản đối của dư luận khi tham gia Hiệp ước Muynich. Do hành động phản bội của phán quyết, mặt trận của người Pháp đã bị phá vỡ và nến chính trị Pháp rơi vào thời kỳ phản động trước khi rơi vào tay phát xít Hitle.
Tuy nhiên, sự tồn tại lâu dài của chính phủ. Trận đấu của người Pháp đã để lại nhiều bài học lịch sử và có ý nghĩa lớn đối với lịch sử của Pháp và thế giới. Phong trào Mặt trận của người dân bảo vệ nền dân chủ, chống lại sự nguy hiểm của việc thành lập chế độ phát xít ở Pháp và tuyên bố một ví dụ tỏa sáng, khuyến khích giai cấp công nhân và người dân của các quốc gia khác trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh.

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.