Nước Mĩ từ 1973 đến 1995

1. Kinh tế, Khoa học – Công nghệ

Từ cuộc khủng hoảng nặng nề năm 1973 trở đi cho đến năm 1982, Hoa Kỳ đã thực hiện một cuộc khủng hoảng kéo dài. Đặc biệt trong những năm 1979 – 1982, cuộc khủng hoảng đã bị tàn phá nghiêm trọng. Người Mỹ gọi những năm 70 là “thập kỷ suy thoái”, “thập kỷ lạm phát”, “Thập kỷ thất nghiệp” …

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1979 – 1982 đã diễn ra sau:

– Năng suất lao động giảm nghiêm trọng: Nếu 1958 Từ1966 là 2,77%/năm, 1967 – 1973 là 1,44%/năm, thì 1974 – 1981 giảm xuống 0,43%. Về ngành công nghiệp, tương tự với thời gian trên, sản lượng đã giảm từ 3,4%/năm xuống còn 2,79%/năm, sau đó 1,118%/năm, ngành nông nghiệp là như nhau: 281/năm, xuống còn 1,58%và 1,15%/năm. Tài chính, bảo hiểm xã hội và kinh doanh bất động sản, tương ứng với thời gian được đề cập ở trên cũng giảm từ 27 năm, xuống còn 0,3%/năm và kéo dài 0,37 nam giới cho năm 1982.

– Sản xuất công nghiệp giảm vượt quá dự đoán của các doanh nhân: 5%/năm, có 12%, 11% và 10% (như trong ngành vật liệu xây dựng, ngành giải thích), ngành luyện kim nam năm 1982 đã giảm 47% so với năm 1981; Ngành công nghiệp xe hơi năm 1982 đã giảm 50.000 chiếc so với năm 1981 là 6,5 triệu chiếc.

– Rối loạn tài chính, tiền tệ và tín dụng: Vào đầu những năm 70. Hệ thống tiền tệ Britton UT sụp đổ, dẫn đến tăng lạm phát và rối loạn tiền tệ (lạm phát tăng 14% vào năm 1980). Thảm ngân sách Hoa Kỳ ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn: những năm 1960 và 1980 là 10%, năm 1982 là 17%và 1983 là 30%.

– Tương đối yếu trong lĩnh vực cạnh tranh quốc tế: Từ năm 1973 đến nay, Hoa Kỳ luôn ở trong tình trạng thâm hụt thương mại nghiêm trọng, trong doanh thu xuất khẩu luôn đứng sau Nhật Bản và Tay Đức. Tình trạng kinh tế và tài chính của Hoa Kỳ trong lĩnh vực quốc tế rõ ràng đã giảm đáng kể.

Để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế, các tổng thống Hoa Kỳ: Pho (Ford), Cato (Carter) trong trách nhiệm của họ đã thực hiện các biện pháp cải cách nhưng không đi đến kết quả. Năm 1980, Rigan đã đi đến sức mạnh để đưa ra “chương trình khôi phục sức mạnh kinh tế của MI”, bao gồm: + Cải cách cơ cấu kinh tế; + Cải cách tài chính và thuế; + Ổn định tiền tệ; + Hợp nhất các vị trí kinh tế trong lĩnh vực quốc tế.

Rigan đã huy động hầu hết các nhà kinh tế Mỹ tham gia thảo luận và phát triển chương trình này. Các nhà kinh tế người Mỹ chỉ trích lý thuyết Kynes (Keynes) quá lỗi thời, ngăn không cho nền kinh tế Mỹ phát triển (Kong là nhà kinh tế Anh, để đưa ra học thuyết kinh tế của ông tại thời điểm khủng hoảng kinh tế Tiền, để giải quyết số tiền, để giải quyết số tiền, để giải quyết số tiền, để giải quyết số tiền hy sinh và đảm bảo số dư giữa cung và cầu, thúc đẩy sản xuất xã hội). Từ năm 1946, chính quyền MI đã áp dụng lý thuyết về Kenh trong việc lập kế hoạch cho các chính sách kinh tế nhà nước Hoa Kỳ cho đến năm 1980. Các nhà kinh tế Mỹ cũng đưa ra các học thuyết mới để xây dựng chương trình này: “Cung điện Trong”, “tiền tệ” ISM và cũng giữ lại quy định hợp lý của lý thuyết Kong. Trong hai nhiệm kỳ với tư cách là chủ tịch, Rigan đã thực hiện thành công chương trình của ông và nền kinh tế Hoa Kỳ đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng từ năm 1982. Vào thời điểm của Chủ tịch BUSD, trong hai năm đầu cầm quyền, ông tiếp tục thực hiện chương trình này một cách suôn sẻ. Nhưng vào năm 1990-1991, các doanh nghiệp đã tiến hành Chiến tranh vùng Vịnh để chi quá nhiều. Và trong một số chính sách kinh tế, Buan đã nới lỏng mà không có quyết định, vì vậy nền kinh tế Hoa Kỳ đã tham gia vào cuộc suy thoái mới và ông đã thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992.

Xem Thêm:  Sự thành lập và hoạt động của Quốc tế II cuối thế kỉ XIX

Phiên bản Ciinton (Đảng Dân chủ) ra phán quyết vào năm 1993 đã quan tâm đến việc giải quyết ‘chính sách nội bộ’ (nghĩa là chính sách kinh tế của Hoa Kỳ. Trong nhiệm kỳ phán quyết của mình, nền kinh tế Hoa Kỳ đã tăng trưởng trong một số lĩnh vực, như giải quyết thất nghiệp, cải thiện phúc lợi xã hội).

Tom một lần nữa. Rigan và bận rộn đã khiến Hoa Kỳ thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế nhất kể từ Thế chiến II. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ vẫn tăng với tốc độ trung bình so với Nhật Bản và Tây Âu, tình trạng kinh tế của MI vẫn đang theo hướng suy giảm trong lĩnh vực quốc tế.

Từ đỉnh cao năm 1945 – 1950, khi nền kinh tế Hoa Kỳ chiếm gần 40% sản phẩm kinh tế thế giới, vào cuối thập niên 80, chỉ có khoảng 23%. Xét về tổng sản phẩm quốc gia (GNP), MI vẫn là thế giới hàng đầu, nhưng thu nhập quốc gia bình quân đầu người đứng sau các quốc gia. Thụy Sĩ, Nhật Bản, Luxembua, Phần Lan. Na Uy.

Từ việc trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới sau Thế chiến II, MI đã trở thành khoản nợ lớn nhất trong thập niên 80. Nợ nước ngoài năm 1986 là 236,5 tỷ đô la. Tổng số nợ của tiểu bang năm 1989 lên tới 285,4 tỷ đô la, với lãi suất phải trả là 240,8 tỷ đô la. Ngược lại, Nhật Bản đã trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới ở mức 180,4 tỷ đô la vào năm 1986.

Về cơ cấu kinh tế, nông nghiệp, lâm nghiệp và nghề cá ngày càng trở thành thứ yếu đối với nền kinh tế Hoa Kỳ. Năm 1988, nông nghiệp, sự nghiệp, ngư dân chỉ gặp 4,2% thu nhập quốc dân; Năm 1989, 23%, năm 1991 là 2%. Tuy nhiên, nông nghiệp Mỹ vẫn là hàng đầu thế giới trên thế giới về cơ giới hóa cao và áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và kỹ thuật trong sinh học và giống.

Xem Thêm:  Sự khủng hoảng và suy sụp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu (Từ nửa sau những năm 70 đến 1990)

Năm 1988, Hoa Kỳ vẫn chiếm phần chính của thị trường thông tin thế giới, máy tính lớn: Mã chiếm 65%, Nhật Bản-28%, Tây Âu-9%trên máy tính cá nhân: Hoa Kỳ-64%, Nhật Bản-16%, Tây Âu-16%. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đang được các quốc gia Nhật Bản và NIC thi đấu trong lĩnh vực này. Liên quan đến tỷ lệ xuất khẩu hàng hóa cao như máy bay, hóa chất công nghiệp, hóa chất nông nghiệp, động cơ, văn phòng và thiết bị máy tính, Hoa Kỳ vẫn là hàng đầu của thế giới, nhưng tỷ lệ này đã giảm, từ nơi chiếm 27% thị trường thế giới (1970), xuống còn 21% (năm 1986).

Nói tóm lại, từ những năm 70 đến nay, mặc dù nó vẫn được tổ chức ở đầu thế giới tư bản, nền kinh tế Mỹ đang dẫn đầu. Về cơ cấu kinh tế, Mỹ đang phải đối mặt với một số vấn đề khá nghiêm trọng như: khả năng cạnh tranh của các ngành sản xuất giảm, thâm hụt ngân sách, nợ nhà nước và nợ nước ngoài đang tăng lên … đòi hỏi phải cố gắng giải quyết để nền kinh tế Hoa Kỳ có thể lấy lại sức mạnh.

2. Hình thức chính trị và chính sách đối ngoại

Sau khi Nichx bị buộc phải từ chức vào năm 1974, phó tổng thống Hoa Kỳ Jerorn (Gerald Ford) lên nắm quyền. Vào tháng 11 năm 1976, trong cuộc bầu cử tổng thống, Gimmi Catd (Jimmy Carter) của Đảng Dân chủ chồng chéo. Nhưng chính sách đối ngoại của G. Pho và G. Cato về cơ bản chỉ là một sự chuyển đổi sang chính sách đối ngoại của NICHX.

Trong cuộc bầu cử vào tháng 11 năm 1980, Ronan Rigan (Ronald Reagan, Đảng Cộng hòa) đã được bầu làm tổng thống. Rigan phán quyết trong bối cảnh thất bại liên tục của Hoa Kỳ: tại Việt Nam (1975), ở Iran (1979) và tình trạng của Hoa Kỳ đã giảm ở nhiều khu vực trên thế giới. Đáp lại, Ri Liige đã cố gắng thực hiện cuộc đua vũ trang để phá vỡ sự cân bằng của chiến lược quân sự với Liên Xô. Vào tháng 11 năm 1983, Rigan đã ra lệnh đưa các tên lửa tầm trung đến Tây Đức, Bỉ, Hà Lan và các nước châu Âu khác. Vào ngày 23 tháng 3 năm 1983, Rigan đã ban hành một kế hoạch quân sự có tên là “Chiến tranh giữa các ngôi sao” (SDI) với chi phí 26 tỷ đô la trong 5 năm. Ngoài ra, Rigg cũng đã tiến hành các chiến dịch xâm lược (như ở Grenada năm 1983, Libi năm 1986 …) và cung cấp vũ khí cho các đội quân nổi loạn ở Apganixtan.

Có thể nói rằng “Lý thuyết Rigān” là “học thuyết về đua vũ trang, từ việc khôi phục vị trí quân sự trên khắp thế giới. Học thuyết này đã được thực hiện trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Rigin (1980 – 1984), cuộc đối đầu của Liên Xô – Mỹ căng thẳng hơn và tình huống thế giới phức tạp hơn.

Nhưng từ nửa sau của thập niên 80, đặc biệt là kể từ khi Goocba nắm quyền ở Liên Xô, mối quan hệ của Liên Xô – MI đã thực sự thay đổi từ “đối đầu” thành “đối thoại”. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Liên Xô và Hoa Kỳ đã tiến hành nhiều cuộc họp cao cấp giữa Rigan và Goocbachop, qua đó nhiều tài liệu về hợp tác của Liên Xô -MI đã được ký kết, quan trọng nhất là việc ký hợp đồng với số lượng lớn.

Xem Thêm:  Xã hội Mã Lai và sự xâm phạm của thực dân Phương Tây

Năm 1988, Busd, Đảng Cộng hòa, được bầu làm tổng thống. Vào cuối năm 1989, tại cuộc họp không chính thức giữa Busd và Goocba trên đảo Manta, Hoa Kỳ và Liên Xô đã chính thức tuyên bố kết thúc “Chiến tranh Lạnh” kéo dài hơn 40 năm giữa hai nước.

Trong “Chiến tranh lạnh” (1989 – 1995), chính quyền Hoa Kỳ – hơn hai thế hệ Buso và Bin Clinton – tiếp tục thực hiện “chiến lược toàn cầu” để thống trị thế giới. Trong việc thực hiện “chiến lược toàn cầu” sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ đã gặp phải những thất bại nặng nề. Mặt khác, Hoa Kỳ cũng thực hiện một số chương trình của họ, thường đóng góp một đóng góp quan trọng cho sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.

Trong nhiệm kỳ đầu tiên của gần 4 năm, mặc dù nó bị ràng buộc bởi tình trạng thiểu số ở cả hai viện thuộc Quốc hội thông qua cuộc bầu cử năm 1994, chính phủ Bin Clinton đã thực hiện một số nhiệm vụ quan trọng: đầu kinh tế đạt trung bình 2,5% một năm và tăng cao hơn mức trung bình 25 năm); giảm thâm hụt ngân sách 290 tỷ USD xuống còn 121 tỷ USD mỗi năm; tạo ra 10,5 triệu việc làm so với 1,7 triệu trong nhiệm kỳ của Chủ tịch Buso; Thu nhập thực tế bình quân đầu người sau khi tính thuế tăng 6% (thời gian của xe buýt chỉ tăng 2,5%). Xã hội. Chính phủ Clinton đã tập trung vào việc cải thiện các vấn đề xã hội khẩn cấp của Hoa Kỳ và được công chúng Hoa Kỳ đánh giá cao. Clinton đã ký một dự luật để tăng mức lương tối thiểu, cải cách phúc lợi và sức khỏe. Trong các vấn đề đối ngoại, chính phủ Clinton đã cố gắng tạo ra một số kết quả quan trọng: vấn đề của Haiti, vấn đề Nam Tư cũ, giải pháp hòa bình ở Trung Đông … tuy nhiên, nhiều vụ bê bối, tham nhũng và bạo lực ở Mỹ tiếp tục xảy ra.

Vào ngày 5 tháng 11 năm 1996, trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, Bin Clinton đã được bầu lại, tiếp tục cai trị một thế kỷ khác.

Nguồn: http://mncatlinhdd.edu.vn/ Tác giả: Nguyễn Tài Cẩn

Nguyễn Lân Dũng

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *