Table of Contents
1. Nhật Bản sau chiến tranh. Phong trào đấu tranh của những người làm việc trong những năm 1918 – 1923
Chiến tranh thế giới thứ nhất, mà Nhật Bản đã tham gia vào các đồng minh, đã thúc đẩy ngành công nghiệp và thương mại tại Nhật Bản để phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian 1914 – 1919, việc sản xuất công nghiệp của thương tiếc 5 lần, đặc biệt là sản xuất sản xuất máy móc và hóa chất tăng 7 lần. Từ năm 1914 – 1918, các khoản thanh toán thương mại có thặng dư là 1475 triệu yên và từ 1915 đến 1920, số dư dư thừa là 2.207 triệu yên. Bột của nền kinh tế Nhật Bản tiếp tục khoảng 18 tháng sau khi chiến tranh kết thúc. Nhiều cuộc tấn công mới của Nhật Bản đã ra đời và hầu hết các cuộc tấn công hiện tại mở rộng sản xuất của họ. Hàng hóa Nhật Bản tràn ngập thị trường châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia). Nhật Bản đã trở thành chủ sở hữu của các đồng minh châu Âu.
Tuy nhiên, nông nghiệp Nhật Bản vẫn phải chịu những tàn tích phong kiến nặng nề. Nền kinh tế của nông dân vẫn đang suy giảm nghiêm trọng và phá sản. Giá thực phẩm, đặc biệt là giá gạo, khiến cuộc sống của người lao động cũng khốn khổ và đã gây ra một phong trào đấu tranh mạnh mẽ.
Vào mùa thu năm 1918, cuộc đấu tranh đó đã diễn ra dưới hình thức “Rice Riots” của những người nông dân nghèo đã phá vỡ các ngôi mộ để lấy thức ăn, phục kích các đồn cảnh sát, đốt những ngôi nhà của những ngôi nhà ẩn giấu. Những bạo lực này lan rộng trên một phần khá lớn của lãnh thổ Nhật Bản, lôi kéo ngư dân, nông dân, tư sản đô thị và một số lượng lớn giai cấp vô sản. Phong trào đình công của công nhân (từ năm 1918) cũng đã phát triển rõ ràng, dẫn đến các tổ chức công đoàn đang thực sự chiến đấu.
Nam 1920 – 1921, Nhật Bản lại bị khủng hoảng. Nền kinh tế giảm so với quá khứ, nhiều tỷ người bị thua lỗ, nhiều ngân hàng kinh doanh đã phá sản và mắc nợ. Số người thất nghiệp lên tới 12.000. Nhiều cuộc đình công của công nhân đã bùng nổ trong các công viên công nghiệp lớn và biến thành các cuộc chiến chống lại chính phủ.
Chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản gặp khó khăn trong nước do cuộc đấu tranh của người dân và những khó khăn bên ngoài do cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và cũng do sự nén của các đế chế khác. Tycoons Nhật Bản tạm thời giành chiến thắng trong thế giới quân sự trong những năm sau chiến tranh, cố gắng ổn định tình hình kinh tế bằng cách mở rộng các lực lượng kinh tế bên ngoài. Nhật Bản đã thừa nhận Hoa Kỳ tại Hội nghị Oasinhton, nhưng vẫn cố gắng phát triển nền kinh tế ở Man Chau và tiếp tục nhìn vào thị trường Trung Quốc rộng lớn.
2. Nhật Bản năm 1924 – 1929
Vào những năm 20, Hoa Kỳ bước vào thời kỳ vinh quang nhưng Nhật Bản chỉ có sự ổn định tạm thời và bấp bênh. Cho đến năm 1926, sản lượng công nghiệp của Nhật Bản đã vượt quá chiến tranh trước chiến tranh và phát triển mạnh mẽ trong ngành công nghiệp nặng, đặc biệt là ngành công nghiệp chiến tranh. Tuy nhiên, sự phát triển của sự mất cân bằng giữa các ngành công nghiệp và ngành công nghiệp tiên tiến và nông nghiệp lạc hậu, đặc biệt là sự khan hiếm của nguyên liệu thô và các vấn đề thị trường tiêu dùng, đã khiến nền kinh tế trở nên rất khó khăn. Những khó khăn này đã đạt đến cùng cực trong cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 1927 khi gần 30 ngân hàng, bao gồm một số ngân hàng lớn, tuyên bố đóng cửa và chính phủ tuyên bố đình chỉ trả nợ. Cuộc khủng hoảng tài chính đã mất đi sự tin tưởng của người dân và giới kinh doanh và đẩy lùi sự phục hồi kinh tế ngắn của Nhật Bản. Năm 1927, hầu hết các doanh nghiệp tại Nhật Bản chỉ sử dụng 20-25% công suất. Từ 1926 đến 1928, số lượng công nhân công nghiệp đã bắn gần 10%. Số người thất nghiệp vào năm 1928 là 1 triệu. Nông dân bị bắn với hóa học, sức mua kém khiến thị trường trong nước hẹp.
Tình huống khó khăn trong cả các vấn đề nội bộ và bên ngoài đã dẫn đến một sự chống lại ngày càng chống lại giai cấp thống trị giữa quân nhân và ông trùm Nhật Bản.
Vào tháng 6 năm 1924, Cato Coom, lãnh đạo của ông trùm đã thành lập một nội các mới. Chính phủ catốt đã thực hiện một số cải cách dân chủ để ổn định chế độ tư bản. Thông thường, luật “mở rộng quyền bầu cử” (được thực hiện năm 1925) đã loại bỏ các điều kiện tài sản cho cử tri, do đó tăng số lượng cử tri từ 3 triệu lên 13 triệu. Đồng thời, chính phủ đã cho phép Đảng Nông dân Lao động và Hiệp hội Binh Ân (công đoàn để mô tả) được phép hoạt động. Đồng thời, chính phủ cũng ban hành luật “bảo vệ an ninh công cộng” (còn được gọi là luật “ý tưởng nguy hiểm”. Luật này đã cho phép cơ quan tư pháp trừng phạt các tù nhân, thông thường hoặc cái chết của những người phản đối chế độ của Hoàng đế.
Trong các vấn đề đối ngoại, chính phủ Công giáo đã công nhận Liên Xô (1925) và Liên Xô với thỏa thuận giải quyết tranh chấp hòa bình và sau đó quân đội Nhật Bản đã rút khỏi phía bắc đảo Xakhalin (người Nhật chiếm đóng năm 1920). Đối với Trung Quốc, Nhật Bản cũng thực hiện một chính sách linh hoạt hơn để giảm bớt cuộc đấu tranh của mọi người và cố gắng dần dần gia nhập nền kinh tế vào thị trường của đất nước. Nhật Bản đã xây dựng nhiều cơ sở thay thế và bắt tay với các quân đội phản động ở phía đông bắc Trung Quốc.
Đến đầu năm 1927, Nhật Bản đã đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế và chính phủ Oacaxuki (thay thế mèo Cam Cai từ ngày 1 tháng 1 năm 1926). Tướng Tanaca, một yếu tố quân sự phản động đã thành lập một chính phủ mới, mở ra một giai đoạn mới trong chính sách đối ngoại và đối ngoại của Nhật Bản.
Chính phủ của các quân phiệt ủng hộ bằng cách sử dụng vũ lực để phát triển. Vào ngày 28 tháng 5 năm 1927, Tanaca đã gửi quân tới hạ cánh đến Sơn Đông và chiếm các địa điểm quan trọng của khu vực này. Nhưng ngay lập tức một phong trào phản đối hình thức tẩy chay hàng hóa Nhật Bản đã bùng nổ trên khắp Trung Quốc buộc Nhật Bản phải rút tiền: Tuy nhiên, chính phủ Tanaca đã từ chối từ bỏ ý định xâm chiếm. Tanaca đã cấu trúc toàn bộ kế hoạch chiến tranh để đệ trình lên Hoàng đế dưới dạng phiên bản “bị giam cầm”, trong đó tuyên bố rõ ràng rằng Nhật Bản không thể tránh được xung đột quân sự với các cường quốc, trước hết là Liên Xô và Hoa Kỳ, đồng thời, kế hoạch cụ thể để xâm chiếm Trung Quốc, đô thị, Ấn Độ, v.v.
Ở nước này, chính phủ NACA đã cố gắng làm cho đất nước, đàn áp phong trào dân chủ và hòa bình. Chính phủ giải tán các tổ chức đại chúng dân chủ, Hiệp hội nhọ, nông dân lao động, thanh niên giai cấp vô sản và tổ chức sinh viên cấp tiến, đồng thời sửa đổi luật về “ý tưởng nguy hiểm” để tòa án có thể dễ dàng kết án tử hình cho người tiến bộ.
Vào tháng 5 năm 1929, chính phủ Tanaca đã gửi một đội quân xâm lược thứ hai. Cuộc xâm lược này cũng thất bại do phong trào đấu tranh mạnh mẽ của Trung Quốc và hơn nữa là Hoa Kỳ, ông cũng phản đối cuộc xâm lược như thế. Vào ngày 2 tháng 7 năm 1929, chính phủ Tanaca đã buộc phải từ chức vì nó không giải quyết được những khó khăn của Nhật Bản, đã không thỏa mãn các quân đội và ông trùm. Chính phủ mới, đứng đầu là Hamguxi, đã được thành lập, nhưng chẳng mấy chốc cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã bùng nổ.
Do đó, Nhật Bản đã phát triển trong những năm chiến tranh và thời kỳ hậu, trở thành một sức mạnh của thế giới. Tuy nhiên, sự ổn định của Nhật Bản trong những năm tiếp theo là chậm, ngắn và bấp bênh so với các quốc gia tư bản khác. Chính sách trong và ngoài đối diện của chính phủ Nhật Bản đã tỏ ra linh hoạt hơn ở những người đàn ông đầu tiên, nhưng tăng cường các tài sản phản động và tích cực trong những năm cuối của những năm 20.
Nguồn: http://mncatlinhdd.edu.vn/ Tác giả: Nguyễn Tài Cẩn

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.