Mặt trận Dân tộc Thống nhất là một tổ chức chính trị quan trọng, đóng vai trò then chốt trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về cách thức hoạt động hiệu quả của tổ chức này, chúng ta cần nắm vững những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo mọi hoạt động của Mặt trận. Vậy, nguyên tắc hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất là gì? Bài viết này sẽ đi sâu vào cơ sở hình thành tư tưởng, quan điểm, và các nguyên tắc hoạt động, giúp độc giả có cái nhìn toàn diện và sâu sắc về tổ chức này.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là nền tảng lý luận và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Tư tưởng này được hình thành từ nhiều yếu tố quan trọng:
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta…”. Lòng yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, tạo nên sức mạnh cố kết dân tộc bền vững qua hàng ngàn năm lịch sử. Tinh thần này là cơ sở sâu xa cho tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, khi vận mệnh cá nhân gắn chặt với vận mệnh quốc gia.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, và giai cấp vô sản phải trở thành dân tộc để lãnh đạo cách mạng thành công. Liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng to lớn. Tư tưởng này chỉ ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức, cung cấp cơ sở khoa học để Hồ Chí Minh đánh giá và phát triển tư tưởng đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh đã rút ra nhiều bài học từ thực tiễn đấu tranh của dân tộc và thế giới. Trong thời phong kiến, các cuộc đấu tranh thay đổi triều đại đã thể hiện tinh thần “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”. Tuy nhiên, các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ 19 đều thất bại do hạn chế trong tập hợp lực lượng và nắm bắt yêu cầu lịch sử. Từ đó, Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.
Từ năm 1911 đến 1941, Hồ Chí Minh đã khảo nghiệm thực tiễn ở nhiều châu lục và nhận thấy các dân tộc thuộc địa có sức mạnh vĩ đại nhưng chưa biết tập hợp lại. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã giúp Người hiểu rõ hơn về con đường cách mạng vô sản và bài học về huy động, đoàn kết quần chúng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là hệ thống luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp, và tổ chức cách mạng để phát huy sức mạnh dân tộc và thời đại. Đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, và giải phóng con người.
Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc. Hồ Chí Minh coi đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn của cách mạng, không chỉ là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đoàn kết tạo nên sức mạnh, là then chốt của thành công. Muốn cách mạng thành công phải có lực lượng đủ mạnh, và muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất.
“Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Đó là nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, và đoàn kết quần chúng để tạo thành sức mạnh vô địch.
“Dân” ở đây là mọi con dân đất Việt, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, già trẻ, giàu nghèo. Đại đoàn kết dân tộc là tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích của nhân dân làm cơ sở để củng cố và mở rộng. Phương châm là “Cầu đồng tồn dị” – lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
Dù cách mạng Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh luôn được xây dựng và tuân theo những nguyên tắc nhất quán:
Trong mỗi quốc gia, dân tộc luôn tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau với lợi ích khác nhau. Tuy nhiên, tất cả đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, dân chủ, tự do. Đây là ngọn cờ đoàn kết, sức mạnh dân tộc, và nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam.
Nguyên tắc này xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Tin vào dân, dựa vào dân có nghĩa là tin tưởng vào sức mạnh và năng lực sáng tạo của nhân dân.
Muốn đoàn kết thì phải có Đảng cách mạng để vận động, tổ chức dân chúng, liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng với tính cách là bộ tham mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng.
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc luôn có những điểm khác nhau cần giải quyết bằng đối thoại, bàn bạc để đi đến nhất trí. Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết, ngăn ngừa tình trạng đoàn kết xuôi chiều.
Ngay từ khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc, với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hòa bình thế giới.
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, đất nước cũng đang đứng trước nhiều thách thức, như nạn tham nhũng, tệ quan liêu, và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Các thế lực phản động không ngừng tìm cách chống phá sự nghiệp cách mạng.
Trong bối cảnh đó, cần quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đảng cần kịp thời phân tích và dự báo những biến đổi trong cơ cấu giai cấp – xã hội để có chủ trương, chính sách phù hợp; coi trọng công tác dân vận, chống tư tưởng hẹp hòi; và kiên quyết đấu tranh với các thế lực thù địch.
Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, quyết định mọi thành công của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu chung, không đoàn kết một chiều. Đoàn kết trong tổ chức để tạo nên sức mạnh, và đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng thời kỳ.
Trong bối cảnh hiện nay, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khơi dậy và phát triển sức mạnh dân tộc, quy tụ lực lượng bằng các hình thức tổ chức phù hợp, và lấy liên minh công nông trí thức làm nòng cốt là những bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững. mncatlinhdd.edu.vn tin rằng, với sự đoàn kết và đồng lòng, Việt Nam sẽ tiếp tục vững bước trên con đường xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc.
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.
Danh động từ (Gerund) là một phần ngữ pháp quan trọng trong tiếng Anh. Bài…
19 Tháng 9 Thuộc Cung Gì?Tháng 9 là tháng của hai cung hoàng đạo: Xử…
Giữa hai phương pháp, dạy trẻ thực hành đọc và cho trẻ em sử dụng…
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một trong…
Tại sao cần đun sôi lá cây thí nghiệm bằng nước cất?Việc đun sôi lá…
Khi trẻ bước vào khoảng thời gian 3-4 tuổi, cha mẹ nên tập trung vào…
This website uses cookies.