Nghệ Thuật Quân Sự Việt Nam: Bí Mật Đằng Sau Những Chiến Thắng Lẫy Lừng

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là một bản hùng ca về tinh thần anh dũng, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt quá trình đó, nhân dân ta đã hun đúc nên một di sản vô cùng quý giá: tư tưởng và nghệ thuật quân sự độc đáo, đặc sắc, thấm đẫm tính nhân văn – một phần không thể tách rời của văn hóa quân sự Việt Nam. Vậy, nét đặc sắc nhất của nghệ thuật quân sự Việt Nam là gì?

Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta luôn phải đối mặt với những kẻ thù xâm lược mạnh hơn về tiềm lực kinh tế và quân sự. Tuy nhiên, với ý chí quật cường, tinh thần đoàn kết và nghệ thuật quân sự tài tình, quân và dân ta đã đánh bại mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc non sông gấm vóc. Những chiến công hiển hách đó không chỉ là kết quả của lòng yêu nước nồng nàn mà còn là minh chứng cho sự sáng tạo, độc đáo trong cách đánh giặc của ông cha ta.

Toàn Dân Đánh Giặc: Sức Mạnh Cội Nguồn Từ Nhân Dân

Một trong những điểm nổi bật của quân sự Việt Nam là tư tưởng “toàn dân đánh giặc”. Từ thời Trần với Hội nghị Diên Hồng và tinh thần “Sát Thát” đến lời kêu gọi “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” của Bà Trưng, Bà Triệu, ý chí quyết chiến, quyết thắng đã thấm sâu vào mỗi người dân.

Xem Thêm:  72 Phép Thần Thông Của Tôn Ngộ Không: Giải Mã Bí Mật Sức Mạnh Tề Thiên Đại Thánh

Nghệ Thuật Quân Sự Việt Nam: Bí Mật Đằng Sau Những Chiến Thắng Lẫy Lừng

Đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện dựa vào sức mình là chính, là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt sự nghiệp giải phóng dân tộc của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập…”, lời hiệu triệu đó đã thôi thúc tinh thần của 54 dân tộc anh em, tạo thành sức mạnh vô địch để đánh bại mọi kẻ thù.

Để giữ vững bờ cõi, các triều đại phong kiến Đại Việt luôn nhất quán tư tưởng cố kết cộng đồng, phát huy sức mạnh của thế trận “làng – nước”. Đến thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng này được nâng lên một tầm cao mới: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”. Đảng ta đã phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, đánh địch trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao. Nhờ đường lối đúng đắn đó, toàn dân tham gia kháng chiến, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh đổ từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi hoàn toàn.

Linh Hoạt “Thế, Lực, Thời, Mưu”: Nền Tảng Của Sự Sáng Tạo

Nghệ thuật quân sự Việt Nam đặc sắc ở chỗ vận dụng linh hoạt “thế, lực, thời, mưu” và có nhiều cách đánh sáng tạo để giành thắng lợi với tổn thất ít nhất. Trong đó, việc tạo dựng và tận dụng thời cơ là yếu tố then chốt.

Ví dụ, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã chủ động thay đổi phương án tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, kéo dài thời gian chiến đấu để tiêu hao sinh lực địch, tạo điều kiện cho pháo binh ta phát huy tối đa sức mạnh.

Xem Thêm:  Tắm Lá Đinh Lăng Cho Bé: Lợi Ích Và Cách Dùng

Chiến dịch Điện Biên Phủ

Hay trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ta đã chớp thời cơ giải phóng Sài Gòn trước khi quân địch kịp co cụm phòng thủ, giành thắng lợi quyết định.

Tinh hoa nghệ thuật quân sự Việt Nam còn nằm ở tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt “mưu phạt tâm công”, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Điều này không chỉ thể hiện bản sắc văn hóa giữ nước mà còn là đạo lý “thương người như thể thương thân”. Trong các cuộc chiến, ta luôn cố gắng hạn chế tối đa tổn thất cho cả hai bên. Khi thắng lợi, ta luôn ứng xử nhân văn, bác ái nhằm xóa bỏ thù hận, nối lại hòa hiếu bang giao.

Tính Nhân Văn Và Dân Tộc Sâu Sắc Trong Văn Hóa Quân Sự

Văn hóa quân sự Việt Nam có tính nhân văn, tính dân tộc sâu sắc, thể hiện trong cách ứng xử giữa con người với con người. Dù căm hận quân xâm lược, dân tộc Việt Nam luôn mở đường “hiếu sinh” cho binh sỹ đối phương về nước an toàn, tạo điều kiện xây dựng mối quan hệ hòa hiếu, hữu nghị.

Lịch sử đã chứng kiến những hành động cao cả của dân tộc ta, như vua Trần đảm bảo an toàn cho quân Nguyên, Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi cung cấp lương thảo cho quân Minh, Đảng, Nhà nước ta thực hiện chính sách tù, hàng binh, “nghinh tiễn” quân Pháp, quân Mỹ về nước. Những hành động đó thể hiện khát vọng hòa bình, hữu nghị và ổn định của Việt Nam với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.

Trên mặt trận ngoại giao, chính sách đối ngoại có nguyên tắc và đầy tình nghĩa của Đảng, Nhà nước ta trong các cuộc đàm phán hòa bình ở Fontainebleau, Geneva và Paris đã thể hiện rõ cốt cách của một dân tộc yêu hòa bình, nhân ái, vị tha, đồng thời đảm bảo tính nguyên tắc, cứng rắn về chiến lược với sách lược mềm dẻo, có lý, có tình.

Xem Thêm:  Tín hiệu ra của khối tách sóng máy thu thanh là gì? Giải đáp chi tiết

Chiến dịch Hồ Chí Minh

Cuộc hòa đàm ở Paris là minh chứng điển hình, gây ấn tượng mạnh trong chính giới và báo giới quốc tế về “trường phái ngoại giao Việt Nam – Hồ Chí Minh”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân tiếp tục được vận dụng sáng tạo bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, mà rõ nhất là công tác địch vận. Công tác này đã kêu gọi được nhiều người lầm đường lạc lối trở về với dân tộc, với chính nghĩa, chống lại quân xâm lược.

Kết Luận

Tóm lại, nét đặc sắc nhất của nghệ thuật quân sự Việt Nam nằm ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng “toàn dân đánh giặc”, sự vận dụng linh hoạt “thế, lực, thời, mưu”, và tinh thần nhân văn, yêu chuộng hòa bình. Những yếu tố này đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp, giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, đánh bại mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Những di sản quân sự quý báu đó cần được kế thừa, phát huy và phát triển hơn nữa trong thời đại ngày nay.

Nguyễn Lân Dũng

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.