Khái quát chung Các nước tư bản chủ yếu trong giai đoạn 1929 – 1939

Vào tháng 10 năm 1929, cuộc khủng hoảng kinh tế đã bùng nổ ở MI, sau đó lan sang tất cả các quốc gia tư bản và kéo dài đến năm 1933, kết thúc giai đoạn ổn định của CNTB trong những năm 20. Cuộc khủng hoảng đã diễn ra trên tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, tài chính và dẫn đến việc giảm mạnh thương mại thế giới. Lý do chính cho cuộc khủng hoảng này là việc sản xuất chủ nghĩa tư bản đã tăng quá nhanh trong một thời gian ổn định, nhưng nhu cầu và sức mua của quần chúng không làm tăng giá hàng hóa tương ứng, và sau đó trở nên dư thừa và dẫn đến suy thoái trong sản xuất. Chính Hoa Kỳ đã đạt được “miễn phí” trong sự phát triển kinh tế của VIN, đó là cuộc khủng hoảng đầu tiên và nghiêm trọng và do đó, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng cũng được thể hiện rõ nhất ở nước này.

Cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra trên toàn thế giới, nhưng ở các quốc gia khác nhau, mức độ và thời gian khủng hoảng ít nhiều khác nhau. Sau cuộc suy thoái ở Mỹ là một cuộc suy thoái rất nặng nề của Đức (vì Đức phụ thuộc rất nhiều vào Hoa Kỳ). Ở Anh, cuộc khủng hoảng không nặng nề như ở Mỹ và Đức.

Cuộc khủng hoảng năm 1929 – 1933 không chỉ tàn phá nền kinh tế mà còn gây ra hậu quả tai hại của chính trị và xã hội cho chủ nghĩa tư bản. Trong cuộc khủng hoảng này, số lượng công nhân thất nghiệp đã lên tới 50 triệu. Hàng triệu người mất nhà vì họ không thể trả tiền cho cam kết. Hàng triệu nông dân đã mất đất và sống trong nghèo đói. Công nhân không được trả tiền. Ở nhiều quốc gia, không có bảo hiểm xã hội và thất nghiệp không được phép, hoặc ở một mức độ nhỏ không thể đảm bảo nhu cầu tối thiểu của các gia đình nghèo. Trong bối cảnh đó, phong trào cách mạng thế giới đã tạo ra một thay đổi mới: Retrimacus dẫn đến cao trào. Hàng ngàn cuộc biểu tình và đi bộ của những người thất nghiệp, trong nhiều trường hợp đã mâu thuẫn với cảnh sát và quân đội; Trụ sở của cuộc đình công chống lại việc hạ thấp Tien Luong đã nổ ra ở hầu hết các quốc gia. Theo người đàn ông không hoàn chỉnh, trong khoảng thời gian từ năm 1928 đến cuối năm 1933, số người tham gia cuộc đình công ở các nước tư bản đã đạt 17 triệu, và số lần đình công là 267 triệu.

Xem Thêm:  Phong trào đấu tranh chống thực dân của nhân dân Châu Phi

Sự phát triển không đồng đều, thậm chí sự khác biệt trong hình thức thống trị giữa các nước tư bản, được hình thành từ những năm khủng hoảng kinh tế. Các quốc gia không có hoặc ít thuộc địa ngày càng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu thô và thị trường đã đi theo con đường của chế độ chính trị phát xít để cứu văn học trong cuộc khủng hoảng nghiêm trọng của họ. Đức, Ý và Nhật Bản là điển hình cho xu hướng này. Đàn ông 30, Ý đã tiến vào con đường “phát xít” và tham vọng lãnh thổ của Mutxôlini thậm chí còn trở nên trắng trợn hơn khi đưa những kẻ xâm lược Ethii vào năm 1935. (Rhenanie), xé xổ số. Quân đội Nhật Bản cũng củng cố các biện pháp phát xít và sau khi ở lại Manchu, ngay lập tức cố gắng chuẩn bị cuộc chiến xâm lược trên quy mô lớn và ký hợp đồng với phát xít Đức là một hiệp ước, tạo thành “trục” của Berlin – Tôkôo. Lò chiến đã xuất hiện.

Trong khi đó, các quốc gia như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp … vì thuộc địa, thủ đô và thị trường của họ, họ có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng của các cải cách kinh tế xã hội một cách hòa bình, vì vậy chính sách tiếp tục duy trì nền dân chủ, duy trì trạng thái của hệ thống Tickel – Oasinhton. Để thích nghi với các điều kiện mới, các cải cách ở các quốc gia này nhằm mục đích tăng cường vai trò của nhà nước và nhà nước kết hợp chặt chẽ với việc phát sóng trong chi tiêu phổi của toàn bộ đời sống kinh tế của đất nước. Một giai đoạn mới trong sự phát triển của CNTB bắt đầu: thời kỳ chủ nghĩa tư bản thao túng nhà nước.

Xem Thêm:  Phong trào đấu tranh của nhân dân Mã Lai

Mối quan hệ giữa các quyền lực CNTB ở giữa những năm 30 đã thay đổi ngày càng phức tạp hơn. Sự hình thành của hai khối đối lập – giữa Đức, Ý, Nhật Bản và một bên là Anh, Pháp, Hoa Kỳ – và cuộc chạy đua vũ trang của hai khối đó báo hiệu một cuộc chiến mới không thể tránh khỏi.

Nguồn: http://mncatlinhdd.edu.vn/ Tác giả: Nguyễn Tài Cẩn

Nguyễn Lân Dũng

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *