Điểm nghẽn lâm nghiệp Việt Nam: Giải pháp nào cho nguồn cung lao động?

Thị trường lao động toàn cầu đang dần ổn định, tuy nhiên, Việt Nam vẫn đối diện với nhiều thách thức trong lĩnh vực lâm nghiệp. Bên cạnh những tín hiệu tích cực về lực lượng lao động và việc làm, ngành lâm nghiệp nước ta còn tồn tại những điểm nghẽn cần được giải quyết để phát triển bền vững. Vậy, một trong những hạn chế của lâm nghiệp Việt Nam hiện nay là gì?

Điểm sáng và bức tranh toàn cảnh về lao động việc làm năm 2023

Năm 2023, thị trường lao động Việt Nam chứng kiến nhiều khởi sắc so với năm trước. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt 52,4 triệu người, tăng 666,5 nghìn người so với năm 2022. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cũng tăng nhẹ, đạt 68,9%. Số người có việc làm đạt 51,3 triệu, tăng 683 nghìn người so với năm trước. Thu nhập bình quân tháng của người lao động cũng tăng lên 7,1 triệu đồng, cho thấy sự phục hồi của nền kinh tế sau đại dịch. Tình hình thất nghiệp và thiếu việc làm cũng được cải thiện đáng kể so với năm trước.

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng, bức tranh lao động việc làm của Việt Nam vẫn còn tồn tại những hạn chế cần được quan tâm giải quyết.

Những hạn chế nội tại của ngành lâm nghiệp Việt Nam

Chất lượng nguồn cung lao động chưa đáp ứng nhu cầu

Một trong những hạn chế lớn nhất của ngành lâm nghiệp Việt Nam hiện nay là chất lượng nguồn cung lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Theo thống kê, vẫn còn khoảng 38 triệu người lao động chưa qua đào tạo từ sơ cấp trở lên. Điều này cho thấy một lực lượng lớn lao động trong ngành lâm nghiệp còn thiếu kiến thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để áp dụng các kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới vào sản xuất, chế biến lâm sản.

Xem Thêm:  Quan Phóng Khi Anh Chạy Về Phía Em Tên Thật Là Gì?

Điểm nghẽn lâm nghiệp Việt Nam: Giải pháp nào cho nguồn cung lao động?

Việc thiếu hụt lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao gây ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của ngành. Điều này đòi hỏi cần có các chính sách và chương trình đào tạo cụ thể, thiết thực để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.

Tỷ lệ lao động phi chính thức còn cao

Mặc dù số lượng lao động có việc làm đang tăng lên, nhưng thị trường lao động vẫn chưa có sự cải thiện đáng kể về chất lượng. Số lượng lao động phi chính thức, làm các công việc bấp bênh và thiếu tính ổn định, vẫn chiếm tỷ trọng lớn, khoảng ba phần năm tổng số lao động có việc làm của cả nước. Tính chung năm 2023, số lao động phi chính thức là 33,3 triệu người, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 64,9%.

Lao động phi chính thức trong lâm nghiệp

Thực tế này cho thấy, một bộ phận lớn người lao động trong ngành lâm nghiệp vẫn chưa được đảm bảo các quyền lợi về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, điều kiện làm việc an toàn và các chế độ phúc lợi khác. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của người lao động mà còn làm giảm tính hấp dẫn của ngành, gây khó khăn cho việc thu hút và giữ chân lao động có tay nghề.

Sự sụt giảm đơn hàng từ cuối năm 2022 đến hết năm 2023 đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế nói chung và thị trường lao động nói riêng, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến chế tạo, làm giảm hiệu quả của các chính sách thúc đẩy chính thức hóa lao động phi chính thức.

Chuyển dịch cơ cấu ngành còn chậm

So sánh các năm từ 2020 đến nay (trừ năm 2021 do ảnh hưởng của dịch Covid-19), sự chuyển dịch cơ cấu ngành giữa khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, khu vực công nghiệp và xây dựng, khu vực dịch vụ năm 2023 dường như chậm lại. Nếu các năm 2020 và 2022, tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp giảm lần lượt là 1,0 điểm phần trăm và 1,6 điểm phần trăm và tăng lên tương ứng ở hai khu vực còn lại (khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 0,5 điểm phần trăm và tăng 0,3 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 0,5 điểm phần trăm và tăng 1,2 điểm phần trăm) thì đến năm 2023 thì tỷ trọng lao động trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm chậm hơn, chỉ giảm 0,6 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 0,1 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 0,6 điểm phần trăm.

Xem Thêm:  Cảm Xúc Bài Thơ Đạo Hiếu Chưa Tròn Là Gì?

Chuyển dịch cơ cấu ngành lâm nghiệp

Điều này cho thấy, ngành lâm nghiệp vẫn chưa thực sự tạo ra được nhiều việc làm mới có giá trị gia tăng cao, chưa thu hút được lao động từ các ngành kinh tế khác chuyển sang.

Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên còn cao

Một vấn đề đáng quan ngại khác là tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên vẫn còn ở mức cao. Năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên 15-24 tuổi là 7,63%, trong đó khu vực thành thị là 9,91%. Số thanh niên thất nghiệp chiếm 41,3% tổng số người thất nghiệp.

Tình trạng này cho thấy, thanh niên, lực lượng lao động trẻ có trình độ học vấn và kỹ năng tốt, đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp với chuyên môn và nguyện vọng. Điều này không chỉ gây lãng phí nguồn lực lao động mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng còn lớn

Số lao động không sử dụng hết tiềm năng năm 2023 là 2,3 triệu người, chiếm 4,3% lực lượng lao động. Đa số lao động không sử dụng hết tiềm năng là những người từ 15-34 tuổi (49,3%).

Điều này cho thấy, Việt Nam vẫn còn một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động tiềm năng chưa được khai thác, đặc biệt là nhóm lao động trẻ. Cần có các giải pháp đồng bộ để tạo điều kiện cho người lao động được phát huy hết khả năng của mình, góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế.

Xem Thêm:  Mẻ Là Gì? Bí Quyết Nấu Ăn Ngon Khó Cưỡng Với Mẻ

Giải pháp và kiến nghị

Để giải quyết những hạn chế trên, cần có các giải pháp đồng bộ từ phía nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.

  • Về phía nhà nước:
    • Cần tăng cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt là các ngành nghề liên quan đến lâm nghiệp, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
    • Xây dựng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động.
    • Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, bảo đảm quyền lợi của người lao động, đặc biệt là lao động phi chính thức.
  • Về phía doanh nghiệp:
    • Cần chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh để tạo ra nhiều việc làm có giá trị gia tăng cao.
    • Xây dựng môi trường làm việc tốt, tạo điều kiện cho người lao động phát huy hết khả năng của mình.
    • Thực hiện đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động.
  • Về phía người lao động:
    • Cần chủ động học tập, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
    • Tìm hiểu kỹ về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia thị trường lao động.
    • Chủ động tìm kiếm thông tin về các cơ hội việc làm phù hợp.

Kết luận

Ngành lâm nghiệp Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng không ít thách thức. Để tận dụng được cơ hội và vượt qua thách thức, cần có sự chung tay của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người lao động. Có như vậy, ngành lâm nghiệp mới có thể phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Nguyễn Lân Dũng

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.