Bối cảnh lịch sử của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại

Để duy trì sự tồn tại và phát triển của họ, ngay từ thời điểm xuất hiện, mọi người phải làm việc và tạo ra sự giàu có vật chất. Do lao động hạn chế, mọi người phải tìm cách liên tục cải thiện, hoàn thành và tạo ra các cơ sở sản xuất như công cụ, máy móc, vật liệu, v.v., thường được gọi là kỹ thuật. Đó là cả một yêu cầu cấp bách của cuộc sống và là một quyết định về bản chất và đặc điểm của xã hội loài người.

Các kỹ thuật tiên tiến hơn, sản xuất phát triển hơn và các hoạt động ngày càng tăng của con người. Do đó, từ các yêu cầu của cuộc sống, cụ thể là từ các yêu cầu về kỹ thuật và sản xuất, mọi người buộc phải liên tục mở rộng sự hiểu biết của họ về tự nhiên để thích nghi với tự nhiên và áp dụng các quy tắc tự nhiên vào cuộc sống. Đó là nguồn gốc và động lực cho mọi người tìm thấy lửa, phát minh ra các công cụ múa rối kim loại (đóng cửa, đóng) và vào thế kỷ thứ mười tám đã phát minh ra một động cơ hơi nước, mở cuộc cách mạng kỹ thuật và cách mạng công nghiệp vào thế kỷ thứ mười tám. Trên cơ sở động cơ hơi nước, cuộc cách mạng đầu tiên này đã cho phép nhân loại chuyển từ công trường xây dựng thủ công sang nhà máy nhà máy, từ lao động thủ công sang lao động sản xuất bằng máy móc. Những thành tựu này dẫn đến một bước ngoặt trong sự phát triển của các lực lượng sản xuất chưa từng có trong lịch sử. Bước ngoặt tuyệt vời này mở ra cho sản xuất hiện đại.

Bước vào nền tảng sản xuất hiện đại, do nhu cầu hàng ngày ngày càng tăng và phức tạp, các yêu cầu về kỹ thuật và sản xuất ngày càng mãnh liệt và khẩn cấp hơn bao giờ hết, đặc biệt là trong tình trạng bùng nổ dân số thế giới và tài nguyên thiên nhiên bị suy giảm, đặc biệt là sau Thế chiến II.

Trước hết, liên tục cải thiện các công cụ sản xuất là một yêu cầu cấp bách trong cuộc sống của con người. Bởi vì sức mạnh và khả năng hạn chế của con người; Mọi người không thể gặp gỡ và trực tiếp kiểm soát các công cụ lao động nặng, các quy trình công nghệ phức tạp, trong đó đòi hỏi cao về thể chất, tốc độ, độ chính xác, tỉnh liên tục, v.v. Do đó, mọi người buộc phải khám phá và phát minh ra các công cụ lao động mới để vượt qua các khiếm khuyết của họ. Ví dụ, người thông minh nhất trong một phút chỉ có thể giải quyết một vài tính toán, nhưng, trong các ngành công nghiệp hiện tại cần một phút để giải quyết hàng chục ngàn tính toán. Điều đó chỉ có một máy tính điện tử mà con người phát minh ra có thể thay thế. Trong nhiều công việc nặng nề, người ta phải mang theo và vận chuyển, nhưng sức mạnh cơ bắp của con người bị hạn chế. Muốn mang và vận chuyển nhiều tạ, hàng chục tấn trở lên cùng một lúc, mọi người không thể sử dụng sức mạnh của mình để làm. Từ yêu cầu đó, nó đòi hỏi mọi người phải phát minh ra đòn bẩy, sau đó phát minh cần cẩu, hàng trăm tấn, hàng ngàn tấn, sau đó nghỉ ngơi trong ô tô, xe lửa … để vận chuyển.

Thứ hai, do nhu cầu ngày càng tăng của cuộc sống con người, đặc biệt là trong bối cảnh dân số ngày càng tăng, tài nguyên thiên nhiên ngày càng nông cạn, việc thăm dò và phát minh ra các công cụ sản xuất mới, kỹ thuật – năng suất cao, nguồn năng lượng mới, vật liệu mới để thay thế được đặt ra một cách khẩn cấp, đòi hỏi cách mạng khoa học để giải quyết.

Ngoài việc liên tục cải thiện, hoàn thiện và tạo ra các phương tiện sản xuất mới, mọi người đặc biệt quan tâm đến năng lượng và vật liệu mới. Năng lượng trong tự nhiên không phải là vô tận, nhưng nhu cầu về năng lượng trong sản xuất và trong cuộc sống tăng lên rất nhanh. Trong các nguồn năng lượng, than, dầu, khí đốt là người được sử dụng rộng rãi nhất trong việc sản xuất và cuộc sống hàng ngày, nhưng ba điều này đang ngày càng cạn kiệt trên hành tinh. Do đó, khám phá các nguồn năng lượng mới là một yêu cầu cấp bách của sản xuất và cuộc sống của con người.

Vật liệu là lao động của con người. Các vật liệu tự nhiên, chẳng hạn như gỗ rừng, mỏ kim loại, v.v., ngày càng khô ráo nghiêm trọng hơn trong khi dân số đang gia tăng. Hơn nữa, các thành phần tự nhiên không đáp ứng một số ngành công nghiệp đòi hỏi chất lượng cao, chẳng hạn như độ bền, khả năng chống nhiệt, khả năng chống lại các tác động bên ngoài của chúng, v.v. Ví dụ, các kỹ thuật vũ trụ đòi hỏi phải có khả năng chịu nhiệt cao, áp suất cao, v.v., vật liệu tự nhiên không đáp ứng yêu cầu này. Trong quá khứ, thép được coi là vật liệu hàng đầu của kim loại trong công nghiệp. Nhưng gần đây, con người đã sản xuất titan, titan có độ bền và nhẹ hơn sắt, không rỉ sét, nhiều hơn kim loại quý trong độ bền hóa học. Tuy nhiên, các hợp kim titan thậm chí còn kỳ diệu hơn, nó tốt hơn 3 đến 5 lần so với titan nguyên chất, tan chảy cao, cũng nhẹ hơn so với các hợp kim khác, vì vậy nó được sử dụng rộng rãi trong ngành hàng không, đóng tàu và ngành công nghiệp hóa học. Do đó, các vật liệu mới, đặc biệt là vật liệu tổng hợp, đang giữ một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong tất cả các ngành công nghiệp. Việc thăm dò và tạo ra các vật liệu mới đang đưa ra một cách khó khăn cho con người.

Thứ ba, những thành tựu của khoa học và kỹ thuật vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cũng tạo ra và thúc đẩy sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Sự ra đời của lý thuyết nguyên tử hiện đại rằng trung tâm của các nhà khoa học là nguyên tử và cấu trúc bên trong của nó (hạt nhân). Các thí nghiệm pha nguyên tử của nhà khoa học Anh – E. Ro Capho được thực hiện vào năm 1911 đã chứng minh rằng nguyên tử không dày đặc nhưng rất trống rỗng. Dựa trên những thí nghiệm đó, các sinh viên của ông là các nhà vật lý Đan Mạch – Ninxo Bo đã đề xuất lý thuyết về mô hình hành tinh về cấu trúc nguyên tử. Nguyên tử ở giữa có một hạt nhân, được bao quanh bởi các thiết bị điện tử chạy trên một số quỹ đạo, như các hành tinh xung quanh mặt trời.

Cùng với lý thuyết nguyên tử hiện đại là sự ra đời của lý thuyết hiện đại của nhà khoa học Đức – Anbe Anhxtanh. Có thể nói rằng hầu hết các phát minh vật lý chính của thế kỷ XX đều liên quan đến tên của ông, từ năng lượng nguyên tử đến La de, chất bán dẫn.

Trong các lĩnh vực khác như hóa học, sinh học, khoa học về mặt đất, hải dương học, khi bức tượng học tập … tất cả đều đạt được những thành tựu lớn.

Thứ tư, cuộc sống của con người trên trái đất có liên quan chặt chẽ với các hiện tượng tự nhiên, chẳng hạn như bão, gió, lũ lụt, động đất, v.v. Để tận dụng lợi thế, vượt qua hoặc hạn chế tác hại của tự nhiên đối với sản xuất và cuộc sống, mọi người buộc phải nghiên cứu không gian của không gian, các hành tinh khác và hiện tượng của tự nhiên.

Thứ năm, để phục vụ hành vi của Chiến tranh thế giới thứ hai, các đảng chiến đấu đã buộc phải suy nghĩ về việc giải quyết sự điều hành của những người lính, truyền thông, truyền thông và chỉ huy, sản xuất vũ khí với sự tàn phá và thiệt hại lớn, v.v., vì vậy cả hai bên của cuộc chiến phải đi vào cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và kỹ thuật. Tiền bắn, bom nguyên tử … trong nửa đầu thập niên 40 để phục vụ chiến tranh.

Cuối cùng, từ miền Nam năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ nghiêm trọng đã nổ ra, nhưng đó thực sự là khởi đầu của một cuộc khủng hoảng chung cho toàn thế giới trong nhiều khía cạnh của chính trị, kinh tế, tài chính, cấu trúc … từ cuộc khủng hoảng, một loạt các vấn đề cấp bách đã được đặt ra, trước hết tất cả các quốc gia phải chú ý và đi sâu hơn vào cuộc cách mạng công nghệ. Cuộc cách mạng này phải đi từ rộng đến chiều sâu. Theo cách này, các quốc gia có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng và tiếp tục phát triển. Trong bối cảnh như vậy, cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật đã được thúc đẩy, và cuộc cách mạng công nghiệp là ưu tiên hàng đầu, mở ra giai đoạn thứ hai của cuộc cách mạng hiện đại này.

Nguồn: http://mncatlinhdd.edu.vn/ Tác giả: Nguyễn Lân dũng

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.

Share
Published by
Nguyễn Lân Dũng

Recent Posts

Khi nào dùng Whom? Cách phân biệt với Who và Whose

Khi nói đến việc sử dụng đại từ bằng tiếng Anh, nhiều người học thường…

2 phút ago

Khi nào dùng Was Were? Cách dùng chuẩn xác & Các trường hợp đặc biệt!

Khi sử dụng là một câu hỏi phổ biến mà nhiều người học tiếng Anh.…

10 phút ago

Khi nào dùng Since và For? Cách phân biệt kèm ví dụ minh hoạ chi tiết

Khi nào dùng Since và For là câu hỏi thường gặp trong tiếng Anh, đặc…

14 phút ago

Khi nào dùng a lot of và much? Cách dùng chuẩn xác trong tiếng Anh

Trong tiếng Anh, việc sử dụng đúng của rất nhiều, nhiều, và nhiều người là…

18 phút ago

Khi nào dùng ANOTHER và OTHER? Cách phân biệt chính xác!

Khi nói đến việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh, nhiều người thường gặp khó…

26 phút ago

Khi nào dùng THERE IS khi nào dùng THERE ARE? – Hướng dẫn chi tiết và dễ hiểu!

Khi nào nên sử dụng ở đó khi sử dụng có một câu hỏi phổ…

32 phút ago

This website uses cookies.