Theo Khoản 1 Điều 111 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Điều 2 Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP, đương sự có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có một trong các căn cứ sau:
Ví dụ: Trong một vụ tranh chấp quyền sử dụng đất, một bên có hành vi xây dựng trái phép trên phần đất đang tranh chấp. Bên còn lại có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp” để ngăn chặn việc xây dựng tiếp tục, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục.
Theo Khoản 2 Điều 111 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Điều 3 Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP, trong tình thế khẩn cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện khi:
Ví dụ: Khi phát hiện một công trình xây dựng có nguy cơ sụp đổ đe dọa đến tính mạng của người dân xung quanh, cơ quan chức năng có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định” để đình chỉ thi công và thực hiện các biện pháp phòng ngừa.
Theo Khoản 3 Điều 111 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Điều 5 Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP, Tòa án có thể tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi:
Từ Điều 114 đến Điều 133 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định 17 biện pháp khẩn cấp tạm thời khác nhau, bao gồm:
Ví dụ: Trong một vụ tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, nếu bên mua có dấu hiệu tẩu tán hàng hóa đã nhận, bên bán có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp “phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” để đảm bảo khả năng thi hành án sau này.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là một công cụ pháp lý quan trọng trong tố tụng dân sự, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, đồng thời đảm bảo tính hiệu quả của quá trình giải quyết vụ án và thi hành án. Việc nắm vững các quy định pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của bản thân và cộng đồng.
Nguồn: https://mncatlinhdd.edu.vn/ Tác giả: Nguyễn Lân dũng
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.
Mầm non Cát Linh giới thiệu đến quý thầy, cô giáo và các em học…
Tài liệu gồm 50 trang, được biên soạn bởi thầy giáo Đặng Công Đức (Giang…
Mầm non Cát Linh giới thiệu đến quý thầy, cô giáo và các em học…
Tài liệu gồm 334 trang, được biên soạn bởi thầy giáo Phạm Lê Duy, tuyển…
Tài liệu gồm 44 trang, được biên soạn bởi thầy giáo Đặng Công Đức (Giang…
Tài liệu gồm 14 trang, được biên soạn bởi thầy giáo Đặng Công Đức (Giang…
This website uses cookies.