Lực Lượng Chủ Chốt Chiến Tranh Đặc Biệt: Phân Tích Từ A-Z (1961-1965)

Từ giữa năm 1961, Hoa Kỳ đã triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” tại miền Nam Việt Nam, một cuộc chiến tranh “dùng người Việt đánh người Việt”. Vậy, lực lượng chủ yếu của chiến tranh đặc biệt là gì? Đó chính là quân đội ngụy quyền, được Mỹ tổ chức, trang bị, huấn luyện và chỉ huy, kết hợp với các biện pháp khủng bố, đàn áp dã man. Chiến lược này không chỉ nhằm xâm lược miền Nam mà còn là một thử nghiệm để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.

Kế hoạch Staley-Taylor: “Xương sống” của chiến tranh đặc biệt

Để thực hiện “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ đề ra kế hoạch Staley-Taylor với ba biện pháp chiến lược:

  1. Xây dựng lực lượng quân ngụy hùng mạnh: Quân đội ngụy quyền được tăng cường, dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ, áp dụng chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng và xe thiết giáp để nhanh chóng tiêu diệt lực lượng cách mạng.
  2. Bình định nông thôn, kiểm soát thành thị: Xây dựng bộ máy kìm kẹp ngụy quyền mạnh mẽ để ngăn chặn phong trào đấu tranh chính trị, bình định đồng bằng và lập ấp chiến lược.
  3. Phong tỏa biên giới, cô lập miền Nam: Kiểm soát chặt chẽ biên giới và ven biển để cắt đứt sự chi viện từ miền Bắc, cô lập cách mạng miền Nam.

Lực Lượng Chủ Chốt Chiến Tranh Đặc Biệt: Phân Tích Từ A-Z (1961-1965)

Ngày 18/2/1962, Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) được thành lập để trực tiếp chỉ huy cuộc chiến tranh xâm lược. Đến cuối năm 1962, quân Mỹ ở miền Nam đã lên tới 11.300 quân, cùng nhiều trang thiết bị hiện đại.

Xem Thêm:  Chuỗi sự kiện kick-off: Giải mã từ A đến Z về D-show 25

Tăng cường quân ngụy: “Nòng cốt” của chiến lược

Để tăng cường lực lượng nòng cốt chiến tranh đặc biệt, Mỹ đã tăng viện trợ quân sự lên gấp bội. Quân ngụy tăng nhanh từ 16 vạn quân năm 1960 lên 36,2 vạn quân năm 1962. Lực lượng bảo an cũng tăng từ 70.000 lên 174.500 quân, cùng lực lượng dân vệ đông đảo để chiếm đóng, kìm kẹp nhân dân.

Mỹ-Ngụy coi bình định, dồn dân, lập ấp chiến lược là nội dung cơ bản, là “xương sống” của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Từ tháng 8/1962, Ngô Đình Diệm công bố “kế hoạch lập ấp chiến lược toàn quốc”, với ý đồ tập trung 10 triệu dân vào 1.600 – 1.700 ấp chiến lược.

Ấp chiến lược

Phản ứng của cách mạng miền Nam

Trước tình hình đó, tháng 1/1961, Bộ Chính trị quyết định đẩy mạnh đấu tranh chính trị và vũ trang, xây dựng lực lượng và căn cứ địa. Ngày 15/2/1961, các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1961, quân và dân miền Nam đã phá thế kìm kẹp ở 8.118 thôn, giải phóng hoàn toàn 3.610 thôn với 6,5 triệu dân.

Ngày 16/2/1962, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam họp Đại hội lần thứ nhất, bầu ra Ủy ban Trung ương chính thức. Đại hội tuyên bố tiếp tục đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ tự do dân chủ và đời sống hạnh phúc cho nhân dân.

Phá sản chiến lược “ấp chiến lược”

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, phong trào cách mạng miền Nam đã giữ vững và phát triển mạnh mẽ. Kế hoạch lập “ấp chiến lược” của địch vấp phải sự chống đối kiên quyết. Nhiều ấp chiến lược bị phá ngay từ lúc mới thành lập, hoặc bị phá đi phá lại nhiều lần, biến thành làng chiến đấu của nhân dân.

Xem Thêm:  Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Kinh Doanh Tiếng Anh Là Gì? [Giải Thích Chi Tiết]

Chiến tranh đặc biệt

Trong năm 1962, quân và dân miền Nam đã đánh 19.108 trận, gây nhiều thiệt hại cho địch. Chiến thắng Ấp Bắc ngày 2/1/1963 đánh dấu sự chuyển biến về chất của chiến tranh cách mạng, báo hiệu khả năng đánh thắng chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng và xe tăng, thiết giáp của Mỹ-ngụy.

Đấu tranh chính trị và khủng hoảng ngụy quyền

Đi đôi với đấu tranh quân sự là những cuộc đấu tranh chính trị rộng lớn, thu hút mọi tầng lớp nhân dân. Trong năm 1963, toàn miền Nam có 34 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị, phá hoàn toàn 2.895 “ấp chiến lược” và giành quyền làm chủ ở 12.000 thôn.

Phong trào đấu tranh chính trị của công nhân, nhân dân lao động, học sinh, sinh viên, tín đồ Phật giáo ở đô thị cũng phát triển mạnh mẽ. Điển hình là cuộc đấu tranh của tín đồ Phật giáo, vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, gây xúc động lớn trong mọi tầng lớp nhân dân.

Sau 1 năm rưỡi thực hiện kế hoạch Staley-Taylor, Mỹ nhận thấy sự bất tài của Ngô Đình Diệm và quyết định “thay ngựa giữa dòng”. Tháng 11/1963, Mỹ làm đảo chính, lật đổ Ngô Đình Diệm.

Thất bại của “Chiến tranh đặc biệt”

Từ tháng 3/1964, Mỹ thực hiện kế hoạch Giônxơn – Mắc Namara, nhưng vấp phải sức phản kháng mạnh mẽ của nhân dân miền Nam. Phong trào chống Mỹ-Khánh lan rộng. Trong vòng 1 năm rưỡi, từ tháng 11/1963 đến tháng 6/1965, đã xảy ra 14 cuộc đảo chính và phản đảo chính giữa bọn tay sai Mỹ.

Xem Thêm:  Cách trang điểm mắt cá tính tạo điểm nhấn cho vẻ ngoài thu hút

Nhân dân thành phố Sài Gòn và nhiều thành phố khác đã tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang giải phóng tổ chức nhiều trận đánh táo bạo, gây thiệt hại lớn cho địch.

Tháng 12/1964, quân và dân miền Nam giành thắng lợi lớn trong trận Bình Giã. Sau chiến thắng Bình Giã, quân giải phóng tiếp tục tiêu diệt nhiều tiểu đoàn quân chủ lực ngụy. Tính chung trong 6 tháng đầu năm 1965, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 90 nghìn tên địch.

Kết luận

Thắng lợi của quân và dân miền Nam và thất bại của địch đã làm thay đổi so sánh lực lượng trên chiến trường. “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ đã đưa lực lượng chiến đấu của Mỹ trực tiếp tiến hành “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Như vậy, lực lượng chủ yếu của chiến tranh đặc biệt dù ban đầu được Mỹ kỳ vọng, đã không thể giúp Mỹ đạt được mục tiêu của mình tại Việt Nam.

Nguồn: https://mncatlinhdd.edu.vn/ Tác giả: Nguyễn Lân dũng

Nguyễn Lân Dũng

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.