Table of Contents
Vùng Đất Tiền Thân Sóc Trăng Có Tên Gọi Là Gì? Khám Phá Lịch Sử
Sóc Trăng, vùng đất nằm ở hạ lưu sông Hậu, không chỉ là một phần quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long mà còn là nơi lưu giữ những trang sử phong phú. Trải qua nhiều biến đổi về địa lý hành chính, Sóc Trăng đã mang trong mình nhiều tên gọi khác nhau, mỗi tên gọi đều gắn liền với một giai đoạn lịch sử nhất định. Vậy, vùng đất tiền thân của Sóc Trăng có tên gọi là gì? Bài viết này của mncatlinhdd.edu.vn sẽ giúp bạn khám phá lịch sử hình thành tên gọi Sóc Trăng qua các thời kỳ.
Từ Ba Thắc Đến Các Tiểu Khu Thời Pháp Thuộc
Năm 1698, chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ Đàng Trong, xác lập phủ Gia Định. Lúc này, Sóc Trăng thuộc vùng Ba Thắc, nằm trong trấn Vĩnh Thanh, phủ Gia Định. Ba Thắc là một vùng đất trù phú, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế và xã hội của khu vực.
Đến năm 1832, vua Minh Mạng chia Nam Kỳ thành sáu tỉnh, Sóc Trăng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Năm 1835, vùng đất Ba Thắc được sáp nhập vào tỉnh An Giang, lập thêm phủ Ba Xuyên, gồm ba huyện: Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định. Đây là một mốc son quan trọng, đánh dấu sự hình thành địa danh hành chính Sóc Trăng sau này.
Năm 1867, thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, trong đó có Sóc Trăng, và chia Nam Kỳ thành nhiều hạt. Đến năm 1876, Pháp chia toàn Nam Kỳ thành bốn khu vực hành chính, Sóc Trăng thuộc khu vực Bát Sắc (Bassac). Năm 1882, Pháp tách hai tổng của tiểu khu Sóc Trăng và ba tổng của tiểu khu Rạch Giá để thành lập tiểu khu Bạc Liêu.
Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 27/12/1892 quy định Nam Kỳ có 20 khu, trong đó có Sóc Trăng. Đến tháng 5/1895, lập thêm thành phố Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Nghị định ngày 20/12/1899 quy định các đơn vị hành chính cấp tỉnh ở Đông Dương đều thống nhất gọi là tỉnh (Province) từ ngày 01/01/1900. Tỉnh Sóc Trăng thuộc miền Tây Nam Kỳ, gồm ba quận: Châu Thành, Kế Sách, Bang Long (nay là Long Phú).
Sóc Trăng Qua Các Thời Kỳ
Năm 1926, thực dân Pháp chia tỉnh Sóc Trăng thành bốn quận: Châu Thành, Kế Sách, Long Phú và Phú Lộc. Năm 1932, một số quận bị giải tán, nhưng đến năm 1941, quận Phú Lộc được tái lập. Sau Cách mạng tháng 8/1945, quận Phú Lộc được gọi là quận Thạnh Trị. Trong kháng chiến chống Pháp, Sóc Trăng có thêm quận Vĩnh Châu của tỉnh Bạc Liêu giao qua, sau đó nhập vào huyện Thạnh Trị.
Năm 1955, Sóc Trăng giao huyện Vĩnh Châu cho tỉnh Bạc Liêu. Cuối năm 1957, tỉnh Sóc Trăng nhận thêm thị xã Bạc Liêu và các huyện: Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai của tỉnh Bạc Liêu và huyện Hồng Dân của tỉnh Rạch Giá. Năm 1958, huyện Kế Sách sáp nhập về tỉnh Cần Thơ. Lúc này, Sóc Trăng có hai thị xã (Sóc Trăng, Bạc Liêu) và bảy huyện.
Tháng 11/1973, Sóc Trăng giao các huyện Vĩnh Lợi, Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu cho tỉnh Bạc Liêu (riêng huyện Giá Rai giao lại cho tỉnh Cà Mau từ năm 1961). Nghị định số 31/NĐ, ngày 21/2/1976, tỉnh Sóc Trăng hợp nhất với tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội quyết định tách tỉnh Hậu Giang thành hai tỉnh Sóc Trăng và Cần Thơ. Tỉnh Sóc Trăng chính thức đi vào hoạt động vào đầu tháng 4/1992.
Từ năm 2002 đến 2009, Sóc Trăng trải qua nhiều điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập thêm các huyện Cù Lao Dung, Ngã Năm, Châu Thành và Trần Đề.
Tính đến năm 2019, Sóc Trăng có 01 thành phố, 02 thị xã, 08 huyện với 109 xã, phường, thị trấn. Dân cư Sóc Trăng chủ yếu là ba dân tộc Kinh, Khmer và Hoa.
Kết Luận
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với những tên gọi khác nhau như Ba Thắc, các tiểu khu thời Pháp thuộc, Sóc Trăng ngày nay đã khẳng định vị thế là một tỉnh phát triển năng động của đồng bằng sông Cửu Long. Lịch sử hình thành và phát triển của Sóc Trăng là một phần quan trọng trong lịch sử Việt Nam, thể hiện sự kiên cường, đoàn kết của người dân nơi đây trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thông qua bài viết này, mncatlinhdd.edu.vn hy vọng bạn đọc đã có cái nhìn tổng quan và sâu sắc hơn về vùng đất Sóc Trăng giàu truyền thống lịch sử và văn hóa.

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học, với hơn 50 năm cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu (Wiki). Ông là con trai của Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hiếu học. Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2010.